Wednesday, June 13, 2012

Tâm thư của Tiến sĩ Sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã gửi các bạn trẻ Việt Nam



Hoàng Sa ơi, Việt Nam ơi,
Hoàng Sa mãi mãi của người Việt ta
Đừng ai vô cảm Hoàng Sa
 Để mà mang tội ông cha muôn đời
Cũng đừng làm nước suy đồi,
Lịch sử phán xét ôi thôi còn gì!
Mỗi người kế hoạch khả thi
Sao cho nội lực ai bì kịp ta!
Xâm lăng, tằm thực tránh xa
 Đừng hòng làm nhục nước nhà Việt Nam, 
Biển Đông bắt nạt ngư dân!
Đừng hòng xử ép, nào thân nỗi gì!

Tháng 8 năm 2011, tôi cùng nhà cựu ngoại giao Dương Danh Dy nói chuyện về Hoàng Sa & Trường Sa tại Trường Đại Học Ngoại Thương ở Hà Nội. Một nữ sinh viên đã phát biểu một câu nói bất hủ: “Bất cứ ai vô cảm với Hoàng Sa & Trường Sa đều có tội với Tổ tông và Dân tộc!” sau khi nghe tôi nói “Bất cứ ai làm cho Đất nước suy hèn đều có tội với Tổ tông và Dân tộc!".

Tôi cũng đã từng nói: “Sự thật lịch sử chỉ có một. Lịch sử rất công bằng và nghiêm khắc với bất cứ ai kể cả nhà sử học!”

Gần đây xảy ra câu chuyện giữa một du học sinh Việt Nam với các du học sinh Trung Quốc, du học sinh Việt Nam trên đã tỏ ra rất lúng túng khi trao đổi về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông!

Từ hồi tôi còn trẻ, hơn 30 tuổi cho đến nay đã 74 tuổi, tôi vẫn đeo đuổi đi tìm sự thật về chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa.

Ngày 20 tháng 1 năm 1975, nhân kỷ niệm một năm ngày Trung Quốc dùng võ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa, tôi cùng Võ sư Trần Huy Phong và Giáo sư Ngô Gia Hy tổ chức triển lãm trưng bày Tư liệu lịch sử minh chứng chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa ở Thư viện Quốc gia tại Sài Gòn. Với tính cách Trưởng Ban tổ chức, tôi phát biểu, đã xúc động không cầm được nước mắt và như Báo Sóng Thần hồi ấy đưa tin "mọi người ôm nhau khóc ròng"!

Trong cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ ba tại Hà Nội cuối năm 2011 vừa qua, một học giả Trung Quốc đã phát biểu rằng trong các thế kỷ vừa qua Trung Quốc đã bị các nước Phương Tây xử ép và làm nhục; thời nay đã khác và kêu gọi các nước Á Đông đoàn kết với Trung Quốc! Tức thì tôi đã phát biểu rằng vậy thì Trung Quốc có chia sẻ với Việt Nam đang bị xử ép và làm nhục không? Cũng trong hội thảo quốc tế trên, để phản bác một học giả khác của Trung Quốc phát biểu rằng sự kiện Trung Quốc đăng ký với Ủy ban Đăng ký Thềm lục địa Liên hiệp quốc “Đường lưỡi bò” ở Biển Đông chỉ là sự kế thừa lịch sử. Tôi đã hỏi rằng:  "Vậy quí học giả đã kế thừa, tiếp cận được hay không sự kiện lịch sử năm 1909, chính quyền Quảng Đông cho là Paracels tức Hoàng Sa là đất vô chủ (res-nullius), đã tổ chức chiếm hữu theo phương cách Phương Tây như đem tàu chiến đến bắn 21 phát súng, cắm cột mốc chủ quyền.., và đã tiếp cận được hay không biết bao tài liệu của Phương Tây bằng nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... Paracels đã thuộc về từ lâu chủ quyền của xứ An Nam hay Cochin China – Xứ Đàng Trong của Đại Việt hay chưa? Và có biết đến luận án tiến sĩ sử học của tôi về “Quá trình xác lập chủ quyền cuả Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa” hay không? Và để lấp đầy sự khác biệt về lịch sử, tôi đề nghị nên có một hội thảo quốc tế về chủ quyền tại Hòang Sa & Trường Sa."

Ngày 16 tháng 6 năm 2012, từ Việt Nam, mặc dù tuổi đã cao, tôi vẫn cố lặn lội đến Boston, chỉ cốt nói với các du học sinh tại trường đại học Harvard, một đại học uy tín chất lượng cao nổi tiếng trên thế giới về sự thật lịch sử chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa với ước mong các bạn du học sinh ở trường Harvard giúp tôi hoàn chỉnh bản tiếng Anh hơn 500 trang Hồ sơ tư liệu về Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa, cùng giúp tôi đưa đến các thư viện có trong danh sách mà năm 1960, quân đội Hoa Kỳ đã gửi tài liệu “Analysis on The Spratley-Paracel Islands Dispute,” no 010660, 6 June 1960, Headerquarters, U.S. Pacific Broadcasting and Visual Activity AP0331.

Trong hơn 500 trang tư liệu kể trên, tôi chỉ mong các bạn lưu ý, tập trung thảo luận và quảng bá 3 thông tin chi tiết cụ thể sau đây:

Một là "Đại Việt sử ký tục biên" (1676-1789) do các sử thần thời Lê - Trịnh biên soạn theo lệnh của Trịnh Sâm năm 1775, đã nói rõ về hoạt động của Đội dân binh Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải và có đoạn viết: “Đặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh xung vào đội ấy, cắt lượt nhau đi thuyền đến đảo mò tìm sản vật. Mỗi năm cứ tháng ba ra đi, mang lương ăn sáu tháng, đi thuyền ra biển ba ngày ba đêm mới đến đảo.”. “Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của qúy ít khi lấy được..." (quyển 2, từ tờ 82b - 85a).

Hai là "Đại Nam thực lục chính biên", đệ nhất kỷ, quyển 52 (đời vua Gia Long) một lần nữa lại ghi rõ ràng: “Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816), vua Gia Long ra lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để xem xét và đo đạc thủy trình...”. Trong khi những tài liệu của những người Phương Tây từng hoạt động trong Triều Gia Long như Chaigneau, Taberd đã công bố những hành động của vua Gia Long cụ thể hơn. Chaigneau, đã viết trong hồi ký “Le mémoire sur la Cochinchine": “Chỉ đến năm 1816, đương kim hoàng đế đã chiếm hữu quần đảo ấy” hay giám mục Taberd viết: “Chính là vào năm 1816 mà Ngài (vua Gia Long) đã long trọng cắm tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong". Gutzlaff năm 1849 đã cho biết "chính quyền Việt Nam thời Gia Long đã thiết lập một trại quân nhỏ để thu thuế và bảo trợ người đánh cá Việt Nam". Đặc biệt năm 1838 giám mục Taberd đã vẽ bản đồ "An Nam Đại Quốc Họa Đồ" đính kèm trong cuốn tự điển Latin –An Nam có tọa độ ghi rõ Paracel seu Cát Vàng; seu tiếng Latin có nghĩa "hay là".

Ba là Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) trong tập châu bản Minh Mạng 55 trang 336, ghi lời châu phê của vua Minh Mạng: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ: “Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”. Vua cũng phê rằng “thuyền đi đâu, phải cắm cột mốc đến đó để lưu dấu". Phúc tấu cũng còn ghi chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật được phái từ Thuận An vào Quảng Ngãi để đi công tác Hoàng Sa.

Trong khi chính sử, "Đại Nam thực lục chính biên", đệ nhị kỷ, quyển 165 (đời vua Minh Mạng), viết rất rõ quan điểm của Bộ Công và hoạt động của Bộ này tại Hoàng Sa: “Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) (năm Đạo Quang thứ 16 đời nhà Thanh) Bộ Công tâu: “xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển nước ta, rất là hiểm yếu, từng sai vẽ bản đồ riêng về hình thế xa rộng, ta mới chỉ vẽ được một, rồi lại cũng chưa biết vẽ nên làm thế nào. Hàng năm, thường phái người đi xem xét cho khắp để thông thuộc đường biển. Xem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái thủy quân biền binh và giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, giao cho 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, thuê 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức thì cứ chiếu chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, và nước biển, bãi biển xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở bình dị thế nào, phải xem xét đo đạc rõ ràng, vẽ thành bản đồ…" "Đại Nam thực lục chính biên", đệ nhị kỷ, quyển 165 còn chép: “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật điều binh thuyền đi đem theo 10 cái bài gỗ dựng bàn dấu mốc, chủ quyền”. Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ Hán: “Minh Mạng thập thất niên (1836), Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa đương độ chí thủ lưu chí đẳng tự”.

Với kiến thức về pháp lý quốc tế từ đầu thế kỷ đến nay cùng những thông tin lịch sử cụ thể trên thì chắc chắn các bạn không thể lúng túng khi tranh luận với các bạn trẻ Trung Quốc về Hoàng Sa & Trường Sa. Dù thế nào đi chăng nữa, dù lý của kẻ mạnh như thế nào chăng nữa thì lịch sử dân tộc ta không cho phép chúng ta hèn yếu. Như tôi đã từng nói: “Muốn lấy lại Hoàng Sa, giữ những gì còn lại của Trường Sa thì mỗi người Việt Nam phải có một kế hoạch nhỏ xây dựng nội lực đất nước hùng cường”.

Đầu thế kỷ 20, cụ Phan Bội Châu đã khởi xướng phong trào Đông Du hầu canh tân đất nước hùng cường để cứu nước. Nay chúng ta đang có phong trào thế giới du. Không có cách nào khác, trước những nguy cơ chưa từng có tại Biển Đông, các bạn trẻ Việt Nam không phân biệt chính kiến, hãy cùng nhau dẹp bỏ những gì “xấu xí” của người Việt như quá ham những tư lợi hại nước hại dân, thiếu đoàn kết, đố kỵ khích bác lẫn nhau… mà phải có lòng yêu nước chân chính có tâm, có tầm như người Nhật Bản để cùng nhau xây dựng nội lực đất nước hùng cường.

Mong vậy thay!

Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Tiến sĩ Sử học
Trưởng Đề án Bếp Việt - Bếp của thế giới
hannguyen1940@yahoo.com - www.amthuc.net.vn

Tuesday, June 12, 2012

Hội thảo biển đảo Việt Nam tại Đại học Harvard (Mỹ)

Ngày 11-6, Hội Thanh niên Sinh viên Việt Nam vùng Boston mở rộng cho biết: ngày 16-6 tới đây, tại Đại học Harvard (Mỹ), Hội sẽ phối hợp tổ chức một hội thảo chuyên đề về biển đảo Việt Nam, với sự tham dự của các diễn giả là chuyên gia nghiên cứu về Biển Đông của Việt Nam và quốc tế.

Theo đó, các diễn giả tham gia hội thảo gồm: TS Nguyễn Nhã, TS Tạ Văn Tài và ông Thomas Vallely (Đại học Harvard). Trong đó, TS Nguyễn Nhã là một nhà nghiên cứu về Biển Đông tại Việt Nam, từng cho xuất bản một Đặc khảo Hoàng Sa và tổ chức triển lãm về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1975. TS Tạ Văn Tài là giảng viên luật Việt Nam tại Trường Luật thuộc Ðại học Harvard. Với chuyên môn về ngoại giao và luật quốc tế, TS Tài có nhiều nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến thềm lục địa, các đặc quyền kinh tế và các văn bản pháp lý của các tranh luận về chủ quyền biển đảo. Riêng nhà nghiên cứu người Mỹ - Thomas Vallely (Đại học Harvard) được nhiều người Việt Nam biết tới, do ông làm Giám đốc Chương trình Việt Nam của Đại học Harvard, và là một trong những học giả có vai trò rất lớn trong quá trình bình thường hóa và thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong hơn 20 năm qua.

Thông qua tham luận được trình bày của các diễn giả, hội thảo nhằm cung cấp cho sinh viên, kiều bào ta ở hải ngoại và công chúng Mỹ các thông tin bổ ích về tình hình biển đảo Việt Nam, các bằng chứng xác đáng về chủ quyền, cùng những cập nhật về luật quốc tế liên quan đến vấn đề biển đảo.

THÀNH LUÂN

Nguồn: http://daidoanket.vn/index.aspx?chitiet=51444&menu=1420&style=1

Sunday, May 6, 2012

Chuẩn hóa ẩm thực Việt

06/05/2012 3:51

Trước 1975, ở Việt Nam hầu như chỉ có đầu bếp Tây hay Tàu được đào tạo và các nhà hàng lớn hầu như chỉ có nhà hàng Tây hay Tàu nhất là ở miền Nam. Còn các quán ăn nhỏ, hàng rong ở đường phố hay ở chợ, bến xe hầu như không được đào tạo. Có chăng chỉ do gia đình truyền lại hoặc học ở các lớp nữ công gia chánh dưới thời Pháp thuộc hay sau đó.

Trong gia đình, nhất là các gia đình ở tầng lớp trên trong những dịp giỗ tết, người phụ nữ Việt hầu chỉ lo bếp núc nên thi nhau sáng tạo rất phong phú các món ăn độc đáo.

Do hoàn cảnh đất nước nhiều biến động, các món ăn cứ mai một dần từ cung đình đến dân dã.

Các quán ăn, nhà hàng chỉ quanh quẩn một số món ăn dễ làm, dễ kiếm lời.

Bây giờ, đa số người ta rất dễ dãi trong ăn uống. Bên cạnh đó, cũng khó kiếm các quán ăn vừa ngon vừa lành lại vừa thanh lịch, vừa với túi tiền của những người sành ăn mà không phải đại gia.

Vấn đề đáng lo hiện nay là nguy cơ lớn chưa từng thấy về vệ sinh an toàn thực phẩm, với chất kích thích tăng trưởng, bảo quản, siêu nạc, siêu... đang đe dọa đến sức khỏe của cả một dân tộc! Người ta sẵn sàng bán những gì người ta không ăn, ăn những gì người ta không bán!

Lại hiện có hiện tượng pha tạp, ít người muốn giữ nước mắm là hồn Việt và bản sắc ẩm thực Việt lấy tự nhiên làm gốc, vừa ngon vừa lành, vừa ít mỡ, ít thịt, nhiều rau củ quả, vừa cân bằng các chất các vị sao có lợi cho sức khỏe: tỷ như món có hơi nhiều mỡ thì ăn nhiều hành tiêu mỡ; món ăn ướp tỏi hay ăn thêm tỏi để trừ khuẩn, lợi tim mạch, ngừa ung thư; món ăn có loại thịt trắng như gà, thịt thỏ hay có khoai, bí ngô, bí đao thì không sợ bệnh gút; món ăn có khế, chuối chát, nhiều loại húng thì ngừa dị ứng...

Món ăn cung đình hay dân dã Việt nhiều chất, nhiều vị mà cân bằng, không thiên lệch về vị nào, chất nào, lại nêm nếm đậm đà thì dễ ngon, dễ hợp khẩu vị của mọi người (dĩ nhiên sẽ lành nếu ít mỡ, ít thịt nhiều rau; ăn uống vừa phải thì rất lợi cho sức khỏe).

Việc chuẩn hóa các món ăn sao cho ngon và lành, chuẩn hóa không gian văn hóa ẩm thực Việt, cũng như chuẩn hóa về vệ sinh an toàn thực phẩm đang là nhu cầu bức thiết của chúng ta. Điều này rất cần cái “tâm” cũng như kiến thức hiểu biết về bản sắc Việt trong ăn uống cũng như cách ứng xử văn hóa xã hội. Các nhà hàng, các quán ăn thật sự đang cần sự hỗ trợ của các nhà văn hóa, các chuyên gia ẩm thực, chuyên gia an toàn thực phẩm, nhất là sưu tầm khảo cứu những tinh hoa ẩm thực từ các gia đình truyền thống.

Đề án bếp Việt - Bếp của thế giới, đang khởi đầu kêu gọi các nhà văn hóa, các chuyên gia vào cuộc, giúp cho các nhà hàng từ sang trọng cho đến các quán bình dân tự chuẩn hóa như trên hầu nâng cao chất lượng văn hóa ẩm thực Việt, niềm tự hào dân tộc.

Ấy là cái lợi muôn đời vậy.

Tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120505/chuan-hoa-am-thuc-viet.aspx

Monday, April 30, 2012

Ẩm thực cung đình


22/04/2012 3:41

Ẩm thực Việt Nam lấy tự nhiên làm gốc, ít mỡ nhiều rau vừa ngon, vừa lành, rất lợi cho sức khỏe.

Ngoài ẩm thực Thăng Long Hà Nội có bản sắc rất Việt, khác hẳn với ẩm thực Trung Hoa, phương Tây; ẩm thực Sài Gòn đa dạng; ẩm thực Huế có sắc thái riêng rất độc đáo, nhất là ẩm thực cung đình duy nhất ở Việt Nam còn để lại ghi chép cụ thể  trong sách vở, hội điển và trong con người Huế từ dòng dõi quý tộc đến người dân từng phục vụ ăn uống trong cung đình.

Ghi chép trong sách vở, hội điển thì vẫn còn đấy, song những kinh nghiệm cụ thể nuôi trồng hay chế biến món ăn, cách ăn, nghi thức ăn trong những tư liệu sống thì đang mất dần, dẫn đến những hiện tượng không đáng có, những sai lệch về ẩm thực cung đình, nhất là cơm vua đang diễn ra ở Huế.

Đã đến lúc giới học thuật nghiên cứu phải vào cuộc, phục dựng lại ẩm thực cung đình từ việc nuôi trồng tuyệt đối an toàn thực phẩm tươi ngon đến cách chế biến tinh tế, cách ăn, nghi thức ăn quyền quý đáng được bảo vệ khẩn cấp!

Vừa qua tôi có đi khảo sát thực tế khu trồng rau ở làng La Chữ hay khu tây thành Huế, người dân ở đây vẫn còn trồng kiểu truyền thống, dùng phân hữu cơ, ít phân hóa học và ít thuốc trừ sâu, kích thích tăng trưởng như các nơi khác. Các loại  rau cho hương vị thơm ngon đặc biệt đã không bị đô thị hóa mất đi như các nơi khác.

Vẫn còn những người trên 80, 90 tuổi biết cách chế biến các món ăn trong cung đình tuy không  nhiều, và vẫn còn những người biết ông cha nhà mình nấu những món ăn cung đình. Dĩ nhiên việc ghi chép lại này mà bắt đầu sớm cách đây vài chục năm thì chắc chắn còn biết bao người thật việc thật! Và đúng là chỉ vài chục năm nữa hay trăm năm sau thì chẳng còn biết sự  thật ra làm sao!

Ẩm thực cung đình Huế và ẩm thực dân dã Huế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ có nhiều cuộc hôn nhân giữa vua, hoàng tử, công chúa, quận chúa lấy con quan, dân ở Huế hay các địa phương khác. Những người trong đội thượng thiện, lý thiện đều là người dân Huế như dân làng Phước Yên. Đó là chưa kể những sách dạy nấu ăn như Thực phổ bách thiên người trong cung đình lại phổ biến rộng rãi cho mọi người biết để nấu từ đầu thế kỷ trước.

Như tôi đã đề cập trong bài trước, nếu phục dựng được ẩm thực cung đình Huế, thì việc đầu tiên phải phục dựng cách nuôi trồng an toàn thực phẩm tuyệt đối khi xưa cho vua ăn ở Huế và những nơi có vật phẩm tiến vua. Bên cạnh đó, việc truy tìm các chứng tích ẩm thực cung đình Huế không phải không làm được; nếu không nói là trong tầm tay, trước khi quá muộn!

Các nhân chứng lịch sử từ con cháu vua, ông hoàng bà chúa, quận chúa còn đang ở Huế hay đang lưu lạc khắp nơi phải được khẩn cấp khai thác.

Gióng tiếng chuông báo động này, hy vọng sẽ có nhiều người cùng tôi đi tìm chân dung thật nhất của ẩm thực cung đình Huế.

Hãn Nguyên Nguyễn Nhã (tiến sĩ sử học)

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120422/am-thuc-cung-dinh.aspx

Sunday, April 15, 2012

Gìn giữ vẻ đẹp Huế

15/04/2012 3:54

Cuối tháng 3 vừa qua, tôi tham dự buổi ra mắt Ngôi nhà bạn cố đô Huế ở khuôn viên Cổ Độ XQ và ngày 1.4 tôi cũng được tham dự buổi ra mắt "Nghiên cứu Huế, tập VIII" của Trung tâm nghiên cứu Huế.

Hai sự kiện xảy ra trước thềm Festival Huế năm 2012 là một nỗ lực có ý nghĩa hướng tới giữ gìn nét đẹp truyền thống vốn có của Huế.

Huế được nhiều người ca tụng Huế đẹp, Huế thơ, Huế mơ!

Sau bao biến động lịch sử cũng như làn sóng hiện đại hóa đất nước hiện nay, chắc mọi người đều thừa nhận rằng Huế như là thành trì bảo vệ nhiều nét đẹp truyền thống dân tộc.

Huế không những đẹp ở cảnh thiên nhiên từ dòng Hương giang, đồi Vọng Cảnh nên thơ, phá Tam Giang hào sảng. Huế còn đẹp ở những di sản di tích lịch sử cung điện, lăng tẩm đồ sộ hài hòa với thiên nhiên. Huế đẹp ở những di sản văn hóa truyền thống độc đáo của mọi thời đại, từ nhã nhạc cung đình Huế với các nhạc cụ, điệu ca múa, nhà hát cổ truyền đến ẩm thực cung đình cũng như dân dã... Huế còn đẹp ở những tục lệ, con người, nền nếp gia đình, cách sống của người Việt truyền thống.

Tôi thật sự xúc động khi nghe những lời phát biểu ngây thơ, dễ thương tại buổi ra mắt Ngôi nhà bạn cố đô Huế của các em học sinh - sinh viên đủ mọi lứa tuổi từ Hà Nội trong đó cả một nữ sinh người Hàn Quốc. Chỉ sau một ngày đêm tham quan, thực tế, “điền dã” dưới sự dẫn dắt của các chuyên gia văn hóa lịch sử Huế, các em đã thấy Huế rất đẹp, rất khác với tất cả những gì từng thấy.

Giá trị đích thực bề nổi cũng như bề chìm văn hóa Huế đã thể hiện khiến bất cứ ai cũng có thể thấy được. Song còn biết bao những tinh tế, phong phú cần phải tìm hiểu, nghiên cứu. Cũng cần đến những người yêu Huế, bạn của cố đô Huế trong và ngoài nước, nhất là các bạn trẻ xây dựng, vun trồng.

Thật sự cần phải nghiên cứu sâu mới thấy hết, hiểu hết những cái đẹp văn hóa truyền thống Huế. Có hiểu, có biết hết mới yêu hết mình.

Bên cạnh đó, có những cái hay, đẹp đang cần khẩn cấp nghiên cứu phục dựng, ví dụ như ẩm thực cung đình Huế, bởi đó là niềm tự hào của Huế, không những có lợi cho Huế, cho du lịch Huế mà rất lợi cho văn hóa Việt, khi nhiều khả năng Huế sẽ là mẫu mực cho việc nuôi trồng tử tế, cung cấp thực phẩm ngon lành, hữu cơ có lợi cho sức khỏe. Chẳng phải, những gì cho vua, cung đình ăn phải tuyệt đối vừa ngon vừa lành?

Festival Huế năm nay có một chương trình dự án nghệ thuật Mây biến thể ở hồ Tĩnh Tâm, đáng cho chúng ta suy nghĩ về sự giữ gìn giá trị đích thực văn hóa Huế khi hồ Tĩnh Tâm đang bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi nước thải khiến mọi sinh vật kể cả sen xưa không còn nữa!

Đó là thông điệp rõ ràng về sự nghiên cứu và giữ gìn vẻ đẹp vững bền Huế.

Hãn Nguyên Nguyễn Nhã (tiến sĩ sử học)

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120414/gin-giu-ve-dep-hue.aspx