Friday, April 5, 2013

Tiến sĩ Nguyễn Nhã bật khóc trước lá thư của học sinh gửi lãnh đạo Trung Quốc

Thứ tư 03/04/2013 07:13

TS. Nguyễn Nhã nói: “Việc con người sợ hãi là một điều gì đó là không tránh khỏi nhưng lịch sử của Việt Nam cho biết một điều rằng mỗi một khi đất nước nguy khốn thì người dân sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả tính mạng. Biết bao thế hệ thanh niên đã sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình để bảo vệ tổ quốc”.


TS. Nguyễn Nhã.

Là nhà nghiên cứu Sử học, TS. Nguyễn Nhã (SN 1939) nổi tiếng với công trình khoa học nghiên cứu về lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông cũng đã từng tham gia nhiều hội thảo về Biển Đông và nhiều lần xúc động, rơi nước mắt mỗi khi nghe tin tức về các tàu cá Việt Nam bị tàu Trung Quốc xua đuổi, gây thiệt hại. Một ngày đầu tháng 4/2013, TS. Nguyễn Nhã đã dành cho báo Giáo dục Việt Nam một buổi trò chuyện về vấn đề này.

"Trong lịch sử chưa có hành động nào man rợ như thế”

Nghẹn ngào xúc động và có những lúc ông đã bật khóc khi nghe bức thư của một học sinh lớp 4 gửi lãnh đạo Trung Quốc và khi được hỏi cảm nhận về việc tàu cá của ngư dân Việt Nam bị bắn cháy cabin vừa qua, ông Nguyễn Nhã chia sẻ:

“Trước hết tôi cũng rất xúc động khi có những bức thư như thế. Tôi thấy trong lịch sử loài người, chưa có tiền lệ nào về việc một tàu được trang bị vũ trang của một nước lại nã đạn vào tàu của ngư dân một nước khác như Trung Quốc vừa làm vừa qua với Việt Nam. Dù có lý do chính đáng nào đi chăng nữa thì cũng không thể có những hành động tàn nhẫn, vô nhân đạo, man rợ như vậy, chứ chưa kể là tàu cá đó của Việt Nam lúc đó đang ở trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam. Đó là một sự đáng tiếc”.

TS. Nguyễn Nhã nói tiếp: “Tôi rất khâm phục các sử thần của TQ như Thái Sử Bá, xưa kia khi họ không sợ bị chém đầu mà nhất quyết viết đúng sự thật. Chẳng hiểu sao, đến nay, truyền thống đó  TQ không còn giữ được, nhất là về sự thật chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc từ đầu thế kỷ XX mới gọi là Tây Sa và Nam Sa.


Đề văn cô Đặng Nguyệt Anh ra cho học sinh lớp 4 Trí Đức.


Một đoạn trong bức thư gửi lãnh đạo TQ của em Vũ Tuyên Hoàng.

Trong khi nhiều tài liệu Phương tây từ thế kỷ XIX  ghi rõ Paracel là Cát Vàng tức Hoàng Sa. TQ đang muốn vươn lên làm một siêu cường trên thế giới, những những hành động vừa qua của họ trên Biển Đông và với Việt Nam thì chỉ gây bất lợi cho họ.

Dù sao chăng nữa, Việt Nam có một câu triết lý: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Tôi nghĩ rằng, trong thời đại này, cả trái đất này là một “giàn” thì chỉ cần một sự hung hãn nào đó thì cả trái đất có thể bị tiêu diệt luôn vì kho vũ khí hạt nhân hay vũ khí hóa học còn rất lớn. Nếu không có sự thay đổi thái độ thì đến một lúc nào đó, thế giới này không còn nữa”.

“Trong những hội thảo về Biển Đông, có nhiều học giả quốc tế nói rằng: “E rằng châu Á sẽ xảy ra những bi kịch giống như của châu Âu ở thế kỷ XX vừa qua khi các hành động hung dữ cứ tiếp tục xảy ra”. Sự lo ngại của các vị học giả đó không phải không có lý khi TQ liên tục có những hành động hung hãn trên khu vực Biển Đông”, TS. Nguyễn Nhã nói.

"Nhiều người dân Việt Nam do lợi mà đã vô tình bị TQ xúi giục”?

Rưng rưng nói về truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc, ông Nhã cho rằng: “Việc con người sợ hãi là một điều gì đó là không tránh khỏi nhưng lịch sử của Việt Nam cho biết một điều rằng mỗi một khi đất nước nguy khốn thì người dân sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả tính mạng.

Biết bao thế hệ thanh niên đã sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình để bảo vệ tổ quốc. Việt Nam chưa bao giờ tự coi là một nước nhỏ cả. Và việc đó đã được thể hiện qua cách đặt quốc hiệu của các triều đại trong lịch sử: Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Nam và các vua Việt Nam luôn tự xưng hoàng đế từ ngàn năm nay…”
Liên hệ đến những sự việc vừa qua như SGK có cờ Trung Quốc, thương lái trộn lẫn hàng của Trung Quốc vào hàng của Việt Nam để bán cho dễ, đèn lồng có chữ “TAM SA”…, TS. Nguyễn Nhã cho hay: “Trung Quốc có nhiều chiêu trò và những việc mà chúng ta thấy vừa qua như SGK có cờ Trung Quốc, đèn lồng của TQ ở Hội An được treo tràn lan, Hải Phòng có chữ “TAM SA”, nho ở siêu thị được dán cờ Trung Quốc, nước tương thay thế nước mắm khắp các nhà hàng một cách vô tư… không phải là một sự ngẫu nhiên, vô tình.

Nhiều người dân Việt Nam do lợi mà đã vô tình bị TQ xúi giục. Nhiều người lớn chúng ta khi đọc được bức thư gửi ông Tập Cận Bình của một cháu nhỏ lớp 4 có lẽ sẽ phải cảm thấy xấu hổ và hãy lấy đó là tiếng chuông thức tỉnh để không còn những nhầm lẫn tai hại như trên”.

TS. Nguyễn Nhã nói tiếp: “Bài học lịch sử cho thấy mình cứ lùi thì người ta cứ lấn tới. Cho nên chúng ta phải có thái độ dứt khoát trước những hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Như tôi từng phát biểu tại Hội thảo Biển Đông tại Hà Nội, nên thêm 1K nữa là “K : Không sợ” vào 8K chỉ đạo. Bởi nếu Biển Đông nổi sóng thì chẳng có ai được lợi cả , song thiệt hại nhất chính là Trung Quốc, làm sao trở thành siêu cường được!.

Các ngư dân của chúng ta vẫn tiếp tục ra khơi, bám biển quê hương để bảo vệ chủ quyền. “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”. Cả nước sẽ cùng hướng về những ngư dân ra khơi đánh cá và để thể hiện chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông đồng thời có những biện pháp giúp đỡ họ khi họ gặp khó khăn. Các tàu kiểm ngư, của Cảnh sát biển cũng phải đi cùng để bảo vệ và hỗ trợ các ngư dân”.

Các ngư dân của chúng ta cũng nên ghi lại các hành ảnh về việc đe doạ, xua đuổi của tàu TQ với tàu cá Việt Nam trong vùng biển thuộc chủ quyền của chúng ta. Cần có một sự thay đổi là: Hãy để cho các ngư dân của chúng ta phản ứng khi cần thiết, la toáng lên cho cả thế giới biết sự thật tàn nhẫn vô nhân đạo mà cả loài người không ai chấp nhận như thế!

Chia sẻ với báo Giáo dục Việt Nam về những cảm xúc trong từng giọt nước mắt mỗi khi nghe tàu cá của Việt Nam ở Hoàng Sa bị TQ xua đuổi, gây thiệt hại, TS. Nguyễn Nhã nói: "Từ hồi năm 1975, tôi bắt đầu xúc cảm như vậy.

Tôi xúc cảm như vậy từ thân phận của những nước nhỏ như Việt Nam thì có thể là nạn nhân của thời cuộc quốc tế. Tất cả những cảm xúc ấy cứ dồn nén.

Nói đến Hoàng Sa là nhớ tới biến cố năm 1974 và năm 1975 kỷ niệm 1 năm TQ dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa. Và từ đó cho đến nay, mỗi khi nhắc đến Hoàng Sa tôi lại có xúc cảm như thế.

Vì khi đó, mình thành cường quốc như những nước khác rồi thì không ai bắt nạt được nữa, không bị xử ép nữa, không bị làm nhục nữa. Đó là tâm trạng trong tim của mình không kìm nén được chứ những việc khác, ít khi tôi tâm trạng lắm".

Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/TS-Nguyen-Nha-bat-khoc-truoc-la-thu-cua-hoc-sinh-gui-lanh-dao-TQ/288016.gd

Sunday, March 31, 2013

Phạm Duy & Sự nghiệp sáng tác

Ngày 12/01/2012, TS. Nguyễn Nhã đã phỏng vấn nhạc sĩ Phạm Duy tại nhà riêng. Nhân kỉ niệm 49 ngày mất của nhạc sĩ Phạm Duy, Hãn Nguyên Nguyễn Nhã Foundation công bố đoạn phim để phổ biến rộng rãi những tâm sự cuối cùng trước khi mất của nhạc sĩ Phạm Duy.

Tuesday, March 12, 2013

Một bài báo đáng cho người Việt suy nghĩ

11:53:46 AM 21/02/2013

Sau 10 ngày du lịch ở Việt Nam, ông Joel Brinkley, vốn từng là phóng viên tờ New York Times và từng đoạt giải Pulitzer (giải thưởng báo chí danh giá nhất tại Mỹ), hiện đang là người dạy chuyên ngành báo chí tại đại học Stanford đã viết bài tựa “Despite increasing prosperity, Vietnam's appetites remain unique" (tạm dịch: Dù ngày một khấm khá, khẩu vị ở Việt Nam vẫn độc nhất vô nhị) trên tờ báo lớn Chicago Tribune ngày 29.1-2013.

TỪ PHẢN ỨNG NHỮNG NHẬN THỨC SAI CỦA ÔNG JOEL BRINKLEY

Sự phẫn nộ của dư luận chắc sẽ không đến thế nếu ông Joel Brinkley không phải là người đoạt giải báo chí danh tiếng, đang dạy học tại một đại học danh tiếng viết cho tờ báo danh tiếng.

Tìm hiểu lịch sử văn hóa của một dân tộc, bản sắc của một dân tộc cực kỳ khó khăn có khi để cả đời chưa chắc đã hiểu thấu đáo, vậy mà chỉ 10 ngày du lịch, ông Brinkley đã mở đầu bài viết khoảng 900 từ như sau:
     
“Ở Việt Nam, bạn dễ dàng nhận thấy những điều bất thường. Bạn không nghe tiếng chim hót, không thấy sóc leo cây hay chuột lục lọi trong những đống rác. Thậm chí, cũng chẳng có con chó nào chạy rông. “Thực tế, hầu như bạn không thấy được một con thú hoang hay thú nuôi nào cả. Chúng đi đâu cả rồi? Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng: chúng đều bị ăn thịt cả”.

Cái sai không chỉ ở chỗ vội kết luận không thấy thú hoang, thú nuôi nào cả  ở những nơi ông đi qua 10 ngày hay cũng đã 4, 5 lần hay hơn nữa, chắc chắn cũng không thể đi nhiều nơi và chắc chắn cũng chỉ ở thành phố là chủ yếu mà còn sai ở chỗ vội suy diễn do bị ăn thịt, nhất là ông thấy vài hiện tượng như ông kể sau đó ông thấy những xe vận tải chở đầy chó đi bán hay có thể ông thấy cửa hàng bán thịt chó, treo những con chó bị làm thịt .

Cái sai là nhận thức mang tính sự phân biệt văn hóa, sự phân biệt chủng tộc. Mỗi dân tộc có nền văn hóa lịch sử riêng, khác biệt nhau, không thể dân kiêng thịt bò phê phán dân thích ăn thịt bò hay dân kiêng thịt heo phê phán dân thích thịt heo. Cũng vậy dân nào thích ăn thịt chó, thịt chuột... phải tìm hiểu loại chó, chuột nào, tại sao dân ấy lại thích...

Cái sai nghiêm trọng nhất của ông khi ông so sánh với các dân tộc Đông Nam Á suy diễn một cách võ đoán rằng người Việt, dân tộc Việt hiếu chiến với “17 cuộc chiến tranh với Trung Quốc kể từ khi giành được độc lập hơn 1.000 năm trước và đã xâm chiếm Cambodia vô số lần và gần đây nhất là vào năm 1979 vừa qua” vì thích ăn thịt chó, thịt chuột hay thịt chim, thịt mèo…!

Dư luận đã có nhiều người chỉ trích bài báo đã nói quá việc ăn thịt động vật tại Việt Nam, "thiếu thông tin và đầy cảm tính" hay ông Brinkley quá "hồ đồ, trịch thượng và phân biệt chủng tộc". Không chỉ người Việt Nam phản ứng trước bài viết “đụng chạm” đất nước mà ngay cả nhiều người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam hay tại Mỹ hoặc ở các nước khác cũng lên tiếng phản đối kịch liệt. Graeme Nye (Tp.HCM) cho biết: “Tôi là một người Anh đang sống ở Việt Nam. Tôi từng là nhà nghiên cứu ở Hạ nghị viện và Quốc hội Canada. Quan điểm của Joel Brinkley thật thiển cận và ít sự nghiên cứu”.

Bà McElwee kết luận “Quy chụp cả đất nước Việt Nam “có khuynh hướng hung hăng” dựa trên những nhận xét sai lầm (các nước khác ở Đông Nam Á không gặp vấn đề nào về động vật hoang dã), những câu chuyện nghe kể lại (chó thỉnh thoảng bị ăn cắp bán cho quán ăn), tin vào những hiện tượng tâm lý tầm phào (ăn thịt làm người ta hung hăng hơn). Làm báo như vậy thì yếu về nghiệp vụ quá”. Trong bài viết trên blog cá nhân của mình, độc giả Michael nói trên khẳng định: “Đây là bài viết về Việt Nam tệ nhất mà tôi từng đọc. Lệch lạc và đầy xúc xiểm. Thật bất mãn khi một nhà báo danh tiếng lại đứng tên một bài viết như thế; nhưng có lẽ còn tệ hơn nữa là một ấn phẩm cũng lớn không kém lại cho đăng bài viết đó”. Cũng theo nguồn tin của báo Thanh Niên, một số sinh viên Việt Nam tại Đại học Stanford (nơi ông  Joel Brinkley giảng dạy) đang có kế hoạch thảo một bức thư phản hồi về bài viết gửi đến ông Joel Brinkley cũng như thu thập các chữ ký phản ứng với bài báo này.

Tiến sĩ Naomi Doak, điều phối viên Chương trình sông Mê kông mở rộng – Đông Nam Á thuộc Tổ chức Bảo tồn quốc tế TRAFFIC, nói với Thanh Niên: “Tôi không đồng ý với rất nhiều lập luận của Ông Brinkley về chim và chó tại Việt Nam. Chúng vẫn còn rất nhiều tại đây, chỉ có điều là chim ở trong lồng còn chó thì trở thành thú nuôi. Tôi không tin Ông Brinkley đã nghiên cứu kỹ các nước khác trong khu vực và dành nhiều thời gian tại đó. Nếu đủ kiến thức, ông Brinkley sẽ không cho rằng chỉ mình người Việt Nam ăn thịt chuột và thịt chó luôn là món khoái khẩu tại đây”.

Tuy nhiên, trao đổi với Báo Thanh Niên, ông Brinkley vẫn khẳng định: “Tôi bảo lưu quan điểm về những gì mình viết ra. Tôi đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu về các nước trong khu vực. Chính những ai phê phán và lên án bài viết của tôi mới là quá khích”. Dù sau đó với áp lực của hàng ngàn người ký tên đòi đại học Stanford sa thải ông, khi trao đổi với Báo Tuổi Trẻ, ông đã nói lời xin lỗi về bài viết sai sót về Việt Nam rằng ông đã 4, 5 lần đến Việt Nam, đã biết rõ những gì ông tận mắt chứng kiến và đã trò chuyện với nhiều người và cũng có nhiều người viết như thế.
       
Như thế, người Việt như tôi chắc cần phải suy nghĩ, tại sao vẫn có người như ông Brinkley vẫn không cho mình đã sai lầm mà vẫn cố bảo lưu quan điểm của mình hay đã đành chấp nhận xin lỗi, sai lầm khi bị áp lực quá mạnh khi mình xúc xiểm đến tự ái của cả một dân tộc. Thật sự ông đã chứng kiến những gì và được nghe nói những gì? Có phải chính người Việt Nam như tôi đã có lỗi không làm gì để thuyết phục được ông hay đã có nhiều hiện tượng và có nhiều người nói với ông khiến ông hiểu không đúng? Hay thật sự đã có những hiện tượng xấu nào đó chưa thể hiện được một xã văn minh? Hay ông Brinkley cố tình nghĩ sai để mọi người quan tâm để thực hiện một ý đồ nào đó?
       
Dù gì đi nữa có những hiện tượng mà ông Brinkley nêu ra không phải không có ở những nơi ông ấy đi qua. Chẳng hạn đúng có một số người Việt nhất là ở Miền Bắc thích ăn thịt chó hay thích món giả cầy, giả thịt chó và một số người Việt nhất là ở Miền Tây Nam Bộ thích ăn thịt chuột, nhưng phải là chuột đồng ở ngoài ruộng lúa ăn lúa gạo. Song chắc chắn không phải người Việt nào cũng thích như thế. Cụ thể trong họ hàng nội ngoại của tôi tới hàng trăm người hiện chẳng ai có từng ăn chứ đừng nói thích ăn thịt chuột và may ra trong trăm người đó thì chỉ vài người từng ăn thịt chó. Và nếu  nói rộng ra hàng vạn người tôi quen biết thì may ra cũng chỉ vài người từng ăn thịt chó hay thịt chuột đồng; có người lại còn sợ ăn thịt chó hay thịt chuột đằng khác nữa.
         
Chắc phải có một cuộc điều tra nghiêm túc xem bao nhiêu người Việt còn thích ăn thịt chó, thịt chuột và những chim hoang dã. Cũng cần phải dẹp bỏ cách trưng bày man rợ như chọc tiết thú vật hay giết chó, thú rừng đang nhan nhản nhiều nơi mà khách du lịch đi qua…

CẦN NGHIÊN CỨU SÂU MỚI CÓ KẾT LUẬN CHÍNH XÁC VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC VIỆT, CON NGƯỜI VIỆT        

Có điều nếu nghiên cứu sâu  lịch sử văn hóa Việt Nam hay hỏi những ai nghiên cứu về ẩm thực Việt Nam, ông  Brinkley sẽ vô cùng ngạc nhiên khi biết bữa cơm gia đình Việt Nam từ xưa đến nay ở miền quê (chiếm từ 80% trở lên dân số cả nước) chủ yếu là cơm rau cá hay dưa cà mắm là cơ bản. Người Việt hầu hết chỉ ăn thịt nhiều vào dịp tết hay giỗ mà thôi.
         
Nhiều người Việt khi mời khách đến nhà ăn cơm thường nói: xin mời đến ăn cơm rau, tức bữa cơm gia đình bình thường chứ không dám bày vẽ gì cả để khách không ái ngại mà nhận lời mời.
         
Trước và sau ngày Cách Mạng tháng Tám năm 1945, tôi còn nhớ rất rõ họ hàng bố tôi nhất là họ mẹ tôi rất lớn vốn là chắt của Hộ bộ thương thư Phạm Thận Duật từ thời Vua Tự Đức đến thời vua Hàm Nghi triều Nguyễn mà trong bữa cơm gia đình hàng ngày cũng ít ăn thịt, còn các lực điền, thợ gặt, thợ cấy của gia đình mỗi bữa cơm sáng hay trưa chủ yếu vẫn là ăn rât nhiều cơm với mắm, cà muối và rau, gần như không có thịt. Quê tôi ở Yên Mô (Ninh Bình) cũng như rât nhiều quê khác khắp miền đất nước có rất nhiều loại chim hoang dã như cò trắng bay từng đàn nay vẫn còn; ở Miền Nam có nơi có cả vườn cò có hàng ngàn con cò ở khắp nơi bay về đậu, người Việt không bao giờ ăn thịt loại chim hoang này.
         
Còn có những chim hoang như quạ, chèo bẻo, sáo sậu… cũng không bao giờ người Việt ăn thịt song bây giờ còn rất hiếm, thì ra những loại chim này thường ăn sâu bọ ở các bụi rậm, cánh đồng mà nay còn rất ít bụi rậm hay đất hoang và các nông dân dùng quá nhiều thuốc trừ sâu, nên làm gì còn sâu bọ cho thức ăn của các loại chim hoang đó làm sao tồn tại nhiều được. Những nông dân lực điền  trên cũng như các anh em họ hàng  nhà tôi không ăn thịt nhiều kể cả không ăn thịt chó, chim, thú hoang mà sao họ tham gia binh lính hai bên tích cực chiến đấu trong cuộc chiến kể cả thời kháng chiến chống Pháp và sau này.
         
Trong thời gian tôi viết bài này, thì nhà văn Từ Quốc Hoài, gốc người Bình Định tập kết ra Bắc năm 1954, người cùng tổ dân phố đến nhà tôi chúc Tết, kể chuyện hồi chiến tranh trong rừng, gạo mang theo không bao nhiêu, mỗi bữa chỉ có vài muỗng cháo, gặp bất cứ con nào là bắt lấy mà ăn. Có một đêm đốt củi rừng sưởi ấm có con dế cơm bay vào, bắt được đem nướng,  có 7 nhà văn chia nhau ăn mà cảm thấy khỏe hơn khi chưa ăn một phần con dế cơm ấy. Rừng trong chiến tranh mà ông  Brinkley nhắc tới không những đã bị bom đạn tàn phá, con người kiếm sống khỏi chết đói và bây giờ lại có nạn phá rừng thì chim thú hoang dã làm sao mà còn nhiều được.
         
Cũng khi đang tiếp chuyện nhà văn Từ Quốc Hoài, tôi lại nghe tiếng con sóc kêu đang leo nhảy từ cây mận (roi) xuống bờ tường nhà tôi ở quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh và lại nghe cả tiếng chim kêu trên cành cây mận kể trên. Chẳng là nhà tôi có cây mận cao cũng như gần chùa thường có những buổi phóng sinh chim, nên thường thấy con sóc chạy nhảy hay chim hoang hót, chứ những nhà khác chưa chắc đã thấy hiện tượng trên mà có thể những người khách nước ngoài như Ông Brinkley lại viết rằng chẳng thấy chim hót, sóc chạy nhảy đâu cả và sẽ suy diễn bị con người ăn thịt hết rồi.

Trước khi người Pháp đến chiếm đóng và cai trị Việt Nam, trâu bò bị nhà nước cấm giết nếu không có lý do chính đáng như trâu  bỏ già yếu hay cần cúng tế tam sinh, vì trâu bò là sức kéo, canh tác của một nước nông nghiệp. Năm 1885 ở Hà Nội rồi tới Hải Phòng bắt đầu của cả miền Bắc  mới có cửa hàng bán thịt bò dành cho người Pháp.

Sau này các thành thị mới có lò mổ động vật và chợ mới bán thịt bò. Cũng chưa có trang trại nuôi bò như ngày nay và cả gà công nghiệp cũng thế mới phát triển gần đây. Vậy thì với ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây, nhất là những người sống trong các thành thị mới ăn thịt nhiều trong đó có thịt bò, bởi người ở xứ lạnh rất cần ăn thịt, có người Mỹ tôi đã chứng kiến ăn thịt bò tới 1 ki lô chứ không như người Việt ăn vài trăm gram là nhiều. Cũng nên biết phần lớn các món ăn Việt như phở, chả giò, gỏi cuốn… thường rất nhiều chất, nhiều vị, thịt chỉ qua loa còn phần lớn rất nhiều rau hoặc luôn ăn kèm với rau sống .
         
Như tôi đã đúc kết khi nghiên cứu về ẩm thực Việt Nam rằng ẩm thực Việt Nam lấy tự nhiên làm gốc vừa ngon vừa lành; rau củ quả cá là chính, rất ít mỡ, ít thịt; cách chế biến chủ yếu là luộc, nấu, nướng, kho, tươi sống là chính, chiên xào, quay rất ít; cách ăn các món ăn luôn cân bằng âm dương, thêm bớt tùy theo cơ thể mỗi người, thường ăn kèm với rau thơm rau sống, gia vị tự nhiên vốn là món ăn bài thuốc, rất lợi cho sức khỏe.
           
Ẩm thực Việt Nam khác hẳn với ẩm thực Trung Quốc hay Phương Tây, dùng nước mắm để nêm hay chấm các món ăn và riêng nước chấm thì vô cùng phong phú, riêng ẩm thực Huế có hàng chục thứ nước chấm và cả muối cũng hàng chục các thứ muối để chấm và chỉ ăn cơm với muối ấy cũng rất ngon và đủ chất bổ dưỡng. Các món ăn không những ngon lành, lấy tự nhiên làm gốc mà lại thường mang nhiều ý nghĩa và quan trọng đến nỗi được vua cha chọn truyền ngôi như truyền thuyết Hùng Vương sau được các sử gia ghi trong sách sử câu chuyện bánh chưng bánh dầy, hoàng tử Lang Liêu làm, dâng lên vua cha vừa ngon vừa lành,bổ dưỡng và giữ chất tự nhiên của gạo nếp, mùi thơm, màu xanh tự nhiên của lá dong, lại mang ý nghĩa công ơn cha mẹ như trời (tròn, bánh dầy), đất (vuông,bánh chưng) thể hiện nền văn hóa Việt, lúa nước khác hẳn văn hóa Hán, lúa mì...
           
Cứ nghiên cứu các chất bài thuốc của củ riềng hay lá mơ tam thể trị các bệnh kiết lỵ thì mới thấy người Việt tinh khôn ra sao. Đó là chưa kể người Việt thường nói: Nắng gỏi (gỏi cá với hàng chục thứ rau bài thuốc), mưa cầy, chó).
           
Chữ ăn trong tiếng Việt lại là mở đầu hàng trăm từ chỉ những sinh hoạt của người Việt, không phải là ăn như ăn hối lộ, ăn nằm, ăn chơi, ăn gian... Ngôn ngữ Việt lại rất phong phú tiếp nhận cả tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh và đặc biệt với đơn lập, đa thanh (6 thanh), nên người Việt nói như hát, đặc biệt thơ người Việt, thơ lục bát có thể hát hàng trăm, hàng ngàn điệu hát dân ca các miền rất du dương, tình cảm chứ không kích thích hiếu chiến, nhạc hùng như tân nhạc tức ảnh hưởng nhạc Tây Phương mà không một dân tộc trên thế giới nào có được như thế.
               
Chính do có bản sắc riêng độc đáo, độc nhất vô nhị ấy từ cách ăn, cách mặc như tà áo dài, thơ ca luôn là vũ khí sắc bén võ trang tinh thần, nung nấu tinh thần yêu nước chống giặc như 17 lần Phưong Bắc xâm lược chứ không phải do ăn thịt chó, thịt chuột, thịt chim  thú hoang như  Ông Brinkley lầm tưởng người Việt hung dữ đâu.
             
Nếu Ông Brinkley đọc kỹ lịch sử Việt Nam sẽ thấy các vua thời nhà Lý, Trần từ thế kỷ 11- 13, tiêu biểu nhất là vua Trần Nhân Tôn mà Việt Nam vừa mở hội lễ Yên Tử ngày hôm qua, là vị vua đã chiến thắng 2 lần xâm lược của đế quốc Nguyên Mông, sừng sỏ nhất thế giới thế kỷ 13, sau khi chiến thắng quân xâm lược đã rũ áo đi tu và khai sáng phái thiền Trúc Lâm của Việt Nam, để lại gương sáng muốn đời về lòng nhân ái cho người Việt cũng như của nhân loại. Nhà vua còn chu du phía Nam và đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm để có của sính lễ lấy hai châu Ô và Lý (Huế-Bình Trị Thiên và Quảng Nam – Đà Nẵng). Cũng như thế các chúa Nguyễn cũng rất sùng đạo Phật cũng gả công chuá Ngọc Vạn để đổi lấy đất Thủy Chân Lạp đang bị bỏ hoang của các di dân Việt đã tới đó khẩn hoang trước.
               
Sự thật lịch sử văn hóa Việt từ cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đối xử chỉ kể vài nét ra đây là như thế không hề hung dữ, rất trọng hòa hiếu, rất hiếu học, rất hiếu khách mà nhiều du khách Phương Tây từ thế kỷ 19 trở về trước đều đã viết trong du ký của mình, chứ không phải tôi chủ quan nói đâu.

NGƯỜI VIỆT NAM CẦN TỰ SUY NGHĨ TỰ TRÁCH MÌNH PHẢI LÀM SAO TRÁNH NHỮNG HIỂU LẦM VỀ DÂN TỘC MÌNH
             
Dĩ nhiên hiện còn rất nhiều những hiện tượng khác do hậu quả của cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt và nhiều thương đau cũng như cách quản lý còn nhiều hạn chế khiến các du khách có thể hiểu lầm về người Việt Nam. Đúng hiện còn quá nhiều vấn đề cần phải giải quyết để xây dựng một xã hội lành mạnh, văn minh được sự quí trọng của mọi người.
             
Một nước Việt Nam có quá khứ lịch sử đấu tranh rất đáng tự hào sẽ đáng được xây dựng thành một nước Việt Nam hùng cường trong đó có một nền ẩm thực lấy tự nhiên làm gốc vừa ngon vừa lành rất lợi cho sức khỏe con người, giúp loài người tránh được những bệnh tật thời đại như bệnh tim mạch, tiểu đường, béo phì, bệnh gút (gout), bệnh ung thư (cancer)...
             
Tôi từng đi vào nghiên cứu rất trẻ, năm 26, 27 tuổi, năm 1966, tôi đã là chủ nhiệm kiêm chủ  bút một tập san nghiên cứu sâu là Tập san Sử Địa mà nay người Việt nam đều thừa nhận rất có giá trị. Tôi đã dành cả cuộc đời cho nghiên cứu quốc học từ việc thành lập Nhóm Nghiên cứu & Phát huy Truyền thống Việt Nam, Nhóm nghiên cứu văn hóa ăn uống Việt Nam... nên tôi rất biết đến những nét đẹp, cái hay, cái độc đáo của lịch sử, văn hóa Việt Nam, nên tôi rất yêu Việt Nam và mong truyền lại những hiểu biết cho mọi người nhất là giới trẻ Việt Nam hay cả những người nước ngoài như ông Brinkley.
             
Tôi thấy Việt Nam không có các triết gia song lại có những triết lý sống của dân tộc qua ca dao tục ngữ như triết lý bầu bí: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” hay “Thương người như thể thương thân” hiện đang cần cho nhân loại khi mà khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc, với sự cạnh tranh quyết liệt và hung dữ như thế kỷ trước thì với các lò hạt nhân, kho vũ khí hạt nhân hay hóa chất nhân tạo đang làm độc hại thay đổi khí hậu, nhấn chìm trái đất cũng như nổ tung trái đất. Không chỉ người Việt mà cả nhân loại phải thương nhau cùng chung một giàn trái đất.
             
Việt Nam lại có rất nhiều di sản văn hóa phi vật thể quí báu của nhân loại như vừa rồi UNESCO công nhận việc thờ Quốc Tổ Hùng Vương, thờ tổ tiên ông bà cha mẹ cũng như việc thờ anh hùng dân tộc, có Đền Vệ quốc ngay từ thời Lý thế kỷ 11-12. Tôi và nhà thơ Mai Trinh vừa sáng tác hơn 1500 câu lục bát 12 hiền kinh Quốc đạo tôn vinh Quốc tổ, sự Đại hòa dân tộc, sự kiên cường chống ngoại xâm cũng như những người được cả dân tộc tôn vinh thành thánh như Đức Trần Hưng Đạo, thành phật như Giác Hoàng Trần Nhân Tôn hay Bà chúa Liễu Hạnh, bà chúa Xứ... đã được các nghệ sĩ hát thơ với nhiều làn điệu dân ca Việt Nam trong chương trình “Đêm Ca trù & Hát thơ Báo Hiếu” nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phạm văn Mùi (xem Google: Đêm Ca trù & Hát thơ Báo Hiếu).
           
Tôi cũng hy vọng cũng cơ hội này sẽ có nhiều người nghiên cứu nước ngoài, biết đâu chính ông Brinkley cũng sẽ nghiên cứu, tìm hiểu một cách khách quan những điều tôi vừa nói qua trên để viết lại như lời Ông đã hứa.

Theo tôi, đây lại là thời cơ tốt cho chính người Việt Nam từ chính quyền đến người dân phải làm sao, tự nhìn lại mình từ cái hay cái dở để không còn có sự hiểu lầm võ đoán, xúc xiểm đến cả một dân tộc này nửa.
             
Tôi đang dự tính viết về “người Việt xấu xí” mà trong trường ca gia đình quốc đạo do tôi và nhà thơ Mai Trinh sáng tác gồm 6000 câu lục bát, trong mục gia huấn ca tôi có nói đến 10 đặc điểm vừa xấu xí vừa cái hay của người Việt như thiếu liên kết, thiếu đoàn kết, thích hưởng thụ sớm, hoang phí vô bổ, ít quan tâm đến sự hoàn hảo, tính rất thực tế song lại hay mơ mộng, chạy theo ảo tưởng, tính cởi mở vui vẻ lại không dài lâu; yêu hòa bình, nhẫn nhịn lại không chịu  bị làm nhục, tự ái rất cao... nhất là hiện nay miệt mài hận thù, ham lợi ích nhóm và cá nhân mà quên đi lòng yêu nước trong xây dựng đất nước vốn bị quá nhiều thương đau và đang quá nhiều nguy cơ như hiện nay.
             
Mỗi người Việt bất cứ ở đâu phải tự trách mình, lỗi tại mình trước hết!
             
Tôi viết bài này với mong muốn gửi tới các bạn trẻ trên thế giới nhất là các bạn trẻ Việt Nam khắp nơi trên thế giới, xin dịch ra tất cả các thứ tiếng trên thế giới nhất là tiếng Anh để ông Brinkley đọc.
             
Tôi cũng xin cám ơn ông Brinkley đã tạo cơ hội cho tôi viết bài này. Tôi cũng rất vui mừng thấy các bạn trẻ Việt Nam khắp nơi phản ứng rất nhanh, có người lập cả trang mạng lấy chữ ký đòi đuổi việc ông Brinkley.
               
Với tinh thần yêu nước của người Việt cũng như tinh thần công bằng, khách quan, tôn trọng sự thật của những người nước ngoài kể cả người Mỹ khi dân tộc Việt Nam bị xúc xiểm như vừa qua, tôi rất vững tin vào tương lai của Việt Nam sẽ không sao khi có nguy cơ lớn đến đâu ở Biển Đông.
             
Biết đến những gì xấu xí nếu có, ở đời vốn nhân vô thập toàn mà! Đất nước nào cũng vậy, ở đâu cũng có thiên đường, ở đâu cũng có địa ngục hay những gì hay đẹp độc đáo, hay sự thật ở đâu cũng được tôn trọng cũng như sự tử tế là điều rất cần cho chúng ta.

Với hơn 3000 món ăn thuần Việt trong bữa cơm hàng ngày hay tiệc trong giỗ tế, khao vọng  khiến người Việt giữ được bản sắc riêng chống đồng hóa dù bị người Hán cai trị hơn 1000 năm. Ăn của người Việt lại là một nghệ thuật, một khoa học; món nào vị ấy với gia vị tự nhiên, không lẫn lộn với các món khác.Chẳng hạn như thịt chó, phải là chó nuôi để ăn thịt không phải chó Tây, chó Nhật, phải có củ riềng, lá mơ tam thể và cả mẻ, một loại cơm lên men chua chua ngọt ngọt mà người miền Nam ít dùng, nên không làm được món thịt chó ngon và cũng không thích ăn. Trong khi ấy những người theo đạo công giáo như Bùi Chu, Phát Diệm ở Miền Bắc di cư vào Nam lại rất thích ăn  thịt chó (chó ta, chuyên nuôi để ăn thịt) nhất là trong các dịp lễ đạo.

Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã
(Trưởng Đề án Bếp Việt, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu ẩm thực Việt Nam)

Nguồn: http://www.tinmoitruong.vn/ban-doc-viet/mot-bai-bao-dang-cho-nguoi-viet-suy-nghi_72_21454_1.html#.UT6bgLJEdq0

Saturday, January 5, 2013

Trường Tương tư

* Trích Đại Trường ca Tình yêu của nhà thơ Mai Trinh (Phần đầu: Tình yêu Đôi lứa)

TẬP I     
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
(6000 câu lục bát)

1. Mặt trời lên rực Biển Đông
Khúc Bi – hùng sáng chói lòng phong ba
Tình Tráng sĩ – Bản Trường Ca
Nỗi đau thế kỉ cũng nhòa giai nhân

2. Phải rằng cách trở quan san
Chỉ trong gang tấc mà vàng son rơi
Em đi nát mộng phương trời
Khúc tương tư để lại người xưa đau

3. Người xưa nước mắt chờ nhau
Giờ em nước mắt qua cầu, như không
Ba mươi năm để trong lòng
Cho nên nước mắt đẫm dòng xưa, sau...

4. Gom thương nhớ vạn ngày sau
Anh xây nốt một thành sầu cho em
Nhớ người từng sớm từng đêm
Một mình một bóng khêu đèn tương tư

“Cách nhau” (8 khổ)

5. Bao nhiêu năm bấy đợi chờ
Bài thơ xưa viết bao giờ trao tay
Anh ở đấy, em ở đây
Cách nhau chỉ một – vạn ngày nhớ thương

6. Cách nhau chỉ một con đường
Mà sao đôi ngả đoạn trường chia đôi
Cách nhau đủ nhạt bờ môi
Cách nhau để má thắm đòi phôi pha

7. Cách nhau để tím quan hà
Mù sương nỡ để yên ba lạc loài
Cách nhau một tiếng thờ dài
Cách nhau dòng lệ bi ai đời mình

8. Cách nhau bởi một chữ tình
Yêu anh cho đắm thuyền trinh đôi bờ
Cách nhau sầu thảm nguồn thơ
Bao hoa mộng chất lịm giờ chia li

9. Trái tim đang sống chôn đi
Tình em chết cũng chỉ vì cách nhau
Chưa tháng bẩy đã mưa ngâu
Trời thương không? Xin bắc cầu cho sang

10. Cách nhau mấy độ hoa vàng
Úa  bao giọt lệ điêu tàn xuân thu
Cách nhau chỉ một đường tơ
Lẽ đâu nước mắt đợi chờ ngàn năm?

11. Bờ vai sương muối ướt đầm
Áo xanh đã bạc mấy lần chưa thay
Biển dâu nào đã qua đây
Ai hay dâu biển bi hoài, quên em...

12. Sầu muôn thủa trước cho nên
Kiếp nay sầu gặp quên tên sầu rồi
Gặp nhau từ cái chơi vơi
Cũng là đá tảng để rồi cách nhau

13. Cách nhau chăng, tím ngàn dâu
Phôi pha hạt mặn không màu ngày xưa
Bèo mây dạt mấy phương chờ
Bao nhiêu mực chảy thành thơ bạc đầu.
Thôi thì hẹn đến kiếp sau
Mỏi mong anh đáp tình sâu muộn màng.

“Sự thơ ngây” (4 ½ khổ)

14. Anh cho Bếp Lửa trong sương
Cho sự sống giữa đêm trường giá băng
Cho bóng mát, cho suối nguồn
Chảy quanh, vụng dại tình em, thẫn thờ...

15. Chắc em còn mãi ngây thơ
Cho nên bé bỏng sẵn chờ trong tim
Con bồ câu nhỏ đi tìm
Dưới trời cao rộng bình yên mái vòm

16. Ngẩn ngơ vì khối tình câm
Ngày đêm biếng nói biếng ăn vì sầu
Yêu người lại thấy mình đau
Đôi khi cũng muốn chôn sâu đáy mồ

17. Ngày hy vọng thấy trời mơ
Đêm tuyệt vọng ngỡ mịt mờ viễn miên
Hồn em như tấm voan êm
Vướng vào tình lụy bụi mềm cỏ gai

Hồn em cùng với hình hài
Ước ao chìm đắm đêm dài mộng mơ

“Biết anh” (10 khổ)

18. Anh khôi vì đẹp như thơ
Để em ngày tháng đợi chờ xanh xao
Anh ôm mộng lớn chí cao
Biết anh có phút giây nào nhớ em?

19. Biết anh tim có yếu mềm
Chạnh lòng đến một cái tên năm nào?
Biết anh có lúc chiêm bao
Sơn – Nam – Hạ lối em vào quê xưa?

20. Biết anh nắng sớm chiều mưa
Trăng sao trời đất giao mùa thấy em?
Biết anh có thức trong đêm
Giở chồng thơ cũ, nỗi niềm ngày thơ

21. Ẩn trong nét mực phai mờ
Biết anh có thấy vật vờ hồn em?
Ẩn trong câu chữ tự nhiên
Biết anh có biết tình tiềm ẩn sâu

22. Câu thơ ẩn giữa niềm đau
Biết anh đâu biết mối sầu em mang
Cung thương đã lịm tơ đàn
Buông dây nước mắt, xin chàng hiểu cho

23. Tình em đại thụ, ước mơ
Đơm hoa kết trái đợi chờ tình quân
Giờ em ôm lụy sầu nhân
Biết anh có biết tâm thành này chăng

24. Thơ ca như sợi tơ đồng
Buộc ràng em với chút lòng thơ ngây
Hóa thành hoa diệu hương bay
Biết anh vớt được hương ngày cuối đông

25. Biết anh mỗi sớm mai hồng
Đường đi có nắng lung linh đến trường
Những bông cúc dại bên đường
Biết anh có chút ngùi thương hoa vàng

26. Mặt trời chở nắng trên lưng
Tuôn tràn xuống mấy ngả đường anh đi
Em gom hết nắng xuân thì
Biết anh những lối đi về, gửi theo

27. Đầu cành có giọt sương gieo
Biết anh có biết ít nhiều lệ rơi
Tình em gửi giọt sương trời
Biết anh biết kẻ xa xôi khóc thầm

28. Trông hoa nở biết mùa xuân
Đốt lò hương để khói trầm bay lên
Tình yêu của bậc nhân hiền
Có khác với tấm tình em não nùng

29. Người theo tiếng gọi non sông
Em theo tiếng gọi của lòng em thôi
Em theo chiếc bóng mây trôi
Khơi lò hương tưởng đến lời nguyện xưa

“Trái tim mặc cho” (20 khổ)

30. Cuộc đời gió đánh đò đưa
Trái tim yêu đẫm hương thề nghìn năm
Trái tim một đóa trăng rằm
ẩn sâu trong ngược mùa xuân bồi hồi

31. Trái tim là của riêng người
Mặc cho thân xác bèo trôi dật dờ
Mặc cho quyên dục sang hè
Mặc cho đông tới thiên di chim trời

32. Mặc cho màu áo xuân phai
Mặc cho nghìn tiếng thở dài, mặc cho
Mắt xanh xưa có phai nhòa
Tóc xanh xưa có sương pha thế nào

33. Mặc cho trăng có qua cầu
Mặc cho thuyền có bến nào đợi trông
Con sào cắm đáy dòng sông
Mặc cho em chết cả lòng, trông theo
.
34. Ngày huyên náo, mặt trời chiều
Trái tim không biết nguôi yêu giờ nào
Mặc cho hồng thủy chiêm bao
Trái tim theo ngọn sóng đào tràn dâng

35. Mặc cho giông bão qua lòng
Mặc cho khổ lụy không ngừng trùng vây
Mặc cho sỏi đá bàn tay
Trái tim xưa có đổi dời được đâu

36. Bên dòng sông nhỏ buông câu
Quên đi hệ lụy trên cầu thế nhân
Trái tim được phút tịnh không
Bóng chim tăm cá bên dòng hư vô

37. Để rồi nhức buốt cơn mơ
Trái tim trốn mộng vỡ òa chiêm bao
Mặc cho kháng thể kêu gào
Anh yêu hỡi biết làm sao bây giờ

38. Máu hồng nhỏ đẫm dòng thơ
Trái tim hoen nước mắt giờ lệ buông
Mặc cho em tát cạn nguồn
Biết bao giờ nhỉ, nỗi buồn tạnh khô

39. Biết bao giờ nhỉ, ước mơ
Mới tan theo tháng năm chờ đợi nhau
Mặc cho mềm yếu tim đau
Mặc cho bóng sắc thay màu thời gian

40. Mặc cho tàn úa hoa vàng
Trái tim để lạnh dung nhan bao giờ
Anh áo trắng của ngày xưa
Mặc cho dâu bể hững hờ qua đi

41. Trái tim mộng huyễn, tình si
Mặc cho viễn cảnh chết vì tình anh
Trái tim ơi hỡi thôi đành
Vì muôn thủa trước đã tanh máu đào

42. Trái tim đau trốn niềm đau
Vẫn còn đọng lại mối sầu tư niên
Trái tim không có cõi miền
Để chừa lại một lối riêng, riêng mình

43. Tìm đâu cũng thấy bóng hình
Nhìn đâu cũng thấy chữ tình ngày xưa
Mặc cho ảo ảnh, giấc mơ
Trái tim chưa dứt đợi chờ người thương

44. Cảm ơn em nhé tim hường
Ở trong tôi suốt gió sương đời người
Mặc cho nắng đổ mưa rơi
Vẫn phong kín ấp ủ người tôi yêu

45. Cảm ơn cả chuyến đò chiều
Chở tôi đến với một điều thiêng liêng
Từ trái tim vẫn vẹn nguyên
Cảm ơn ơn nhé thề nguyền ngày xanh

46. Ước gì em được gặp anh
Trái tim xưa bé hiện vành trăng xinh
Cảm ơn cả những tội tình
Bao nghịch cảnh với vô minh cuộc đời

47. Mặc cho – là trái ngang rồi
Chân tình dần hiện trong tôi, hiểu rằng
Trái tim là của riêng anh
Đi qua giông bão rớt thành lệ em

48. Mặc cho – là biết quên tên
Những ma chiết những lụy phiền trái tim
Trái tim cần phút bình yên
Trái tim cần phút dịu hiền tình anh

49. Anh bao dung thế, sao đành...
Bỏ quên em với tan tành tim yêu
Bỏ quên trong gió mưa chiều
Mặc cho em khóc tịch liêu một mình

50. Lệ em chan đẫm khối tình
Lệ em rơi đẫm áo xanh bao giờ
Lệ em ố vạn hàng thơ
Khối tình ấy kết bao giờ cho tan

51. Khối tình kết giữa mùa vàng
Của hoa trái ngọt đương sang xuân thì
Lệ em máy động hàng mi
Lệ em mừng tủi thầm thì đáy tim

52. Lệ em lấp lánh sao chìm
Đọng trên khuôn mặt như nhiên cuộc đời
Cảm ơn người đã cho tôi
Biết vị mặn của lệ rơi năm nào

53. Gượng nằm cũng thấy chiêm bao
Lệ em hư ảo rơi vào chén không
Giọt châu đáy giếng vô cùng
Lệ em hóa hiện muôn trùng hạt rơi

54. Em đi cuối đất cùng trời
Lệ em in dấu chân người tương tư
Bao mầm nước mắt năm xưa
Giờ thành đại thụ che vừa bóng râm

55. Lệ em như nước nguồn sông
Em đâu muốn khóc cho thành đại dương
Anh ơi sông có xa nguồn
Em xa anh chết mất hồn mộng xưa

56. Lệ em giọt ngọt như mưa
Bước chân đi biết bao giờ về đây
Đôi bàn chân nhỏ dạn dày
Đường hoa đã dứt chông gai sẵn chờ

57. Anh ơi anh có bao giờ
Tình yêu em chẳng vực bờ cách ngăn
Lệ em sương sớm mùa xuân
Lệ em nụ hạt trên khăn thêu hồng

58. lệ em xinh hạt cườm cườm
Áo anh biêng biếc vương vương mây trời
Nhưng là mộng đó anh ơi
Lệ em trong giấc mơ đời hợp tan

59. Lệ em bay khắp chiều tàn
Lệ em bay khắp nhân gian gọi người
Tìm nhau tinh thể xa xôi
Lệ em dòng lệ lạc loài hồng nhan

60. Lệ em chẳng cởi dây oan
Lệ em càng buộc càng ràng tình đau
Người xưa nước mắt đền nhau
Lệ em rơi hạt phai màu, bỗng dưng

61. Đêm đêm giấc ngủ lưng chừng
Lệ em thổn thức “xin đừng quên em”
Nỗi buồn còn có tuổi tên
Lệ em mấy thủa mấy miền hồng hoang

62. Em đi từ độ hoa vàng
Tự tay em chít khăn tang cho tình
Đã không nguyện ước ba sinh
Thì đời em với khối tình chôn theo

“Trái tim vẫn”

63. Trái tim còn lửa khát khao
Vẫn âm ỉ vẫn dạt dào yêu thương
Vẫn bùng cháy mỗi đêm trường
Đốt thiêu thân xác tủy xương lạnh lùng

64. Trái tim hội ngộ tương phùng
Nghìn năm nhịp đập đợi trông một người
Mưa nguồn chớp bể xa khơi
Vẫn mang tiếng hát lên trời nguyện dâng

65. Trái tim băng giá mùa đông
Vẫn là hồng ngọc thủy chung tình này
Trái tim em, lạ lùng thay
Vẫn huyền diệu ghi dấu ngày yêu anh

66. Trái tim xác tín cuối cùng
Vẫn là bí nhiệm sắc không cuộc đời
Vẫn là... chỉ một lần thôi
Hướng dương theo dấu mặt trời... nở hoa

67. Trái tim cầm phách sênh ca
Vẫn hòa nhịp với lời hoa đương thì
Cho tình đôi cánh lưu li
Bay lên thành khúc sử thi đoạn trường

68. Sông hồ về lại phố phường
Trái tim giũ áo mù sương giang hà
Vẫn còn thơm một mùi hoa
ẩn trong mắt ngọc môi ngà trái tim

69. Thuyền em trong dải sương chìm
Nhớ anh em khóc trọn đêm giang đầu
Vẫn là nước mắt chờ nhau
Trái tim đợi phút gặp sau đền bồi

70. Xác thân chìm lắng luân hồi
Khát khao tận huyết mạch nhồi con tim
Xin nhung nhớ chuyển cơ duyên
Trái tim em vẫn... vẫn thèm trường sinh

71. Xác thân cần mãi tình anh
Yêu cho đến giọt cuối cùng đời nhau
Trái tim quỳ với nguyện cầu
Vẫn là... dù có đớn đau cũng đành

72. Vẫn yêu chỉ một mình anh
Trái tim có lúc biến thành lửa than
Trái tim dù có tro tàn
Vẫn còn dư ảnh dư vang một thời

73. Mai sau em có xa người
Trái tim em vẫn có nơi đi về
Thân dù đã tạnh cơn mê
Trái tim vẫn nhỏ giọt thề thốt yêu

74. Bên cầu tình ái trông theo
Bóng ngày qua ngọn nước reo chân cầu
Trái tim buông thả niềm đau
Vẫn nghe tiếng vọng mai sau gặp người

75. Em dần quên lãng nụ cười
Trái tim theo bóng ngày trôi lạnh lùng
Vẫn là sầu nhớ mênh mông
Chập chờn núi thẳm trùng trùng sóng sôi

Đại Trường ca Tình yêu: lời bạt của Hãn Nguyên Nguyễn Nhã

Tình yêu đích thực có giá trị muôn đời vừa làm đẹp người, làm đẹp đời, làm đẹp quê hương đất nước. Tình yêu trong các tác phẩm văn chương nhất là trong các tác phẩm văn chương tuyệt tác có gia trị vượt thời gian và không gian.

Đại Trường ca Tình yêu  của nhà thơ Mai Trinh gồm hai phần: Phần đầu gồm Tình yêu đôi lứa bao gồm Trường Tương Tư, Lửa yêu, Đêm yêu để tặng tuổi trẻ Việt Nam, phần II  gồm Tình yêu quê hương bao gồm quê hương các vùng miền từ Nam: Mũi Cà Mau ra Bắc: Nam Quan, Cao Bằng, Lạng Sơn. Mỗi vùng miền đều nói đến làng tôi, trường tôi, những nét đẹp lịch sử văn hóa… để kính tặng Quốc Tổ và các anh hùng dân tộc…

Trong thực trạng hiện nay, tuổi trẻ Việt Nam đang yêu cuồng sống vội không những làm chất lượng sống thấp hèn mà khiến sự phát triển đất nước gặp nhiều khó khăn nếu không nói là xuống giốc thảm hại. Những tác phẩm văn chương như “Đoạn tuyệt”, “Anh phải sống”, “Tiêu Sơn Tráng sĩ”… phải chăng đã ảnh hưởng đến tuổi trẻ Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh. Tôi viết những vầng thơ sau đây Tình yêu là gì như là những lời bạt của Tác phẩm Đại trường Ca Tình yêu của nhà thơ Mai Trinh:

Lửa Trời thiêu đốt con người.
Lửa yêu làm đẹp cuộc đời nên thơ,
Lửa Trời đốt cháy rừng mơ,
Lửa yêu cảm hóa không ngờ - người yêu
Văn minh nhân loại - lửa reo
Cái nôi tiến hóa - bắt đầu lửa thiêng
Thức ăn cho đến tài nguyên
Bắt đầu từ lửa nhiệm huyền tìm ra
Lửa nào bão chuyển phong ba
Hay lòng hoa nở đó là lửa yêu.

Yêu là phải đủ mọi điều,
Yêu là phải nhớ, phải chiều, phải mong,
Yêu là phải giữ trong lòng
Những gì kỷ niệm đợi mong ngày nào
Yêu là nguồn sống của nhau,
Cùng nhìn một hướng cùng cầu hợp duyên,
Duyên cầm sắt, lẽ đương nhiên,
Nếu không thì cũng là duyên cầm kỳ.

Bạn đời chẳng đặng, mong chi?
Bạn tâm giao chẳng mong gì nữa đâu.

Yêu là giữ mãi nguyện cầu,
Tâm đầu ý hiệp cùng nhau nguyện làm
Nguyện xây Đất Nước đàng hoàng,
Quê hương giàu đẹp huy hoàng hơn xưa 
Yêu làm đời đẹp nên thơ!
Yêu là sao để túi thơ cho đời!
Thơ tình, tình bạn, tình người,
Tình yêu trong sáng muôn đời còn yêu! 
Yêu là phải hiểu nhau nhiều,
Phải đoán được ý những điều quan tâm,
Yêu là muốn được hiến dâng,
Những gì mình quý chẳng cần thiệt hơn.

Yêu thì chẳng muốn ghen hờn,
Ghen sao vẫn giữ được hồn người yêu,
Yêu là người phải biết điều,
Điều hơn lẽ thiệt kiệt keo làm gì? 
Yêu thì chẳng nói năng chi.

Đồng tình, đồng cảm những gì ước mơ
Tuy hai mà một mong chờ
Cùng nhau hiệp nhất từng giờ từng giây! 
Yêu thì như dại như ngây
Như diều gặp gió như cây liền cành
Yêu mong sớm được ngày lành,
Những gì quí nhất để giành cho nhau, 
Yêu thì mong ước nguyện cầu,
Mong sao ý hợp tâm đầu hợp duyên,
Mong sao những chuyện tư riêng,
Cùng nhau chia sẻ những niềm đắng cay, 
Yêu nhau như đắm như say,
Bảo sao nghe vậy đâu hay thế nào!
Sớm hôm chẳng hiểu làm sao?
Cứ như ta bị hút vào nam châm, 
Nam châm hút mạnh khi gần,
Còn yêu lại hút mạnh dần từ xa,
Ái lực tăng sức cho ta,
Như nguồn suối nóng như là thuốc tiên, 
Thuốc tiên hiệu quả thấy liền
Yêu thì lại khiến ta ghiền ta say,
Mê say lại thật là hay!
Say mà vẫn tỉnh chẳng say chút nào, 
Tình yêu kì diệu làm sao!
Không thể diễn tả thế nào ra đây!
Yêu mà đạt đạo mới hay,
Yêu mà mù quáng biết ngày nào khôn, 
Yêu thì tình lớn tình con,
Tình yêu đôi lứa chẳng còn tình chi?
Chẳng là tình nhỏ là gì!
Có khi hạnh phúc, có khi nát lòng, 
Thói đời hờn giận mất khôn,
Nhỏ nhen thì dễ tính đường thiệt hơn,
Vợ chồng tương kính như tân,
Đâu ai giữ đượcthanh xuân ngày nào, 
Cho nên tình lớn chí cao.

Cùng nhìn một hướng làm sao đi cùng,
Con đường xây dựng quê hương,
Con đường nhân ái yêu thương đồng bào,
 Con đường cách mạng gian lao,
Con đường vận động làm sao đại hòa,
Con đường thù hận bỏ qua!
Con đường đất nước tiến xa phú cường, 
Con đường biển lớn muôn phương,
Con đường đa dạng ta thường phát huy,
Con đường bác ái từ bi,
Con đường “bầu bí” ta đi tới cùng, 
Con đường tử tế thật lòng,
Con đường trung thực mà không gian tà,
Con đường ta vẫn là ta,
Con đường đi tới bài ca vuông tròn, 
Con đường đại nghĩa chí nhân,
Con đường muôn sự của chung thật là,
Con đường về tắm ao ta,
Dù trong dù đục quê nhà vẫn hơn, 
Con đường vinh nhục dại khôn,
Con đường sống chết thiệt hơn định phần.
Con đường tiến dũng tín nhân,
Con đường quốc đạo mười phân vẹn mười, 
Con đường Quốc tổ giống nòi,
Đồng bào đồng bọc ta thời thương nhau,
Con đường nhân ái nêu cao
Đại hòa dân tộc làm sao tới gần. 
Con đường thượng võ tinh thần,
Con đường cách mạng tâm thân phải làm,
Con đường thiên lý gian nan,
Tử qui sính ký vô vàn yên tâm, 
Con đường vạn giáo đồng nguyên,
Hòa giải hòa hợp thành giềng mối chung,
Con đường đạo lý tương ân,
Nếu ta tuân thủ thung dung trọn đời, 
Con đường khoa học ai ơi,
Những điều mới lạ làm tươi nhân loài,
Mục đích ấy chớ đơn sai,
Chỉ vì tham vọng của loài phi nhân,
 Chúng ta sống đẹp sống gần,
Con đường truyền thống tinh thần Việt xưa,
Thê giới phẳng ta hiện giờ,
Quan niệm đó giúp chạy đua tinh thần,
 Con đường phát triển thêm gần,
Văn minh nhân loại góp phần cho ta,
Ta không lầm lẫn tinh hoa,
Mong sao giúp nước non nhà phồn vinh, 
Phát huy vốn quí nước mình,
Phải là chiến sĩ hòa bình mới hay,
Con đường bằng phẳng chông gai,
Bàn chân ta để dấu hoài ngày sau, 
Chúng ta đi với nguyện cầu,
Tình yêu sức bật, trước sau một lòng,
Tình yêu thì vẫn thủy chung
Dân tộc trên hết mặn nồng như xưa,
Bao nhiêu hòai bão ươc mơ 
Trở thành lí tưởng Đại hòa trong tim,
Con đường sáng, giấc mơ tiên,
Con đường vui trải mấy miền cỏ hoa, 
Con đường hiện thực giấc mơ,
Con đường sống để làm thơ yêu đời,
Đường Tự do nối chân trời,
Đường tình yêu nối tim người với ta 
Cùng chung nhịp đập giao hòa
Cùng chung đại nguyện sống là dấu son
Đường tình yêu trải nước non,
Điểm xanh cuộc sống tô hồng Quê hương,
Quê hương muôn vạn con đường,
Qui về một cội một nguồn Việt Nam,
Con đường thoát khỏi nghèo nàn,
Con đường phát triển Việt Nam phú cường, 
Con đường làm đẹp quê hương,
Con đường vọng ngoại hết đường sống dai,
Con đường quí trọng hiền tài,
Con đường tiến tới tương lai vững bền, 
Con đường nhân chủ làm nền,
Con đường dân chủ dựng nên cơ đồ,
Con đường độc lập tự do,
Con đường hạnh phúc ấm no phú cường 
Ấy là gìn giữ thiên lương
Noi theo đạo sống tấm gương Đại Hòa
Đường Quốc Đạo - Khải hoàn ca
Con đường bản sắc đậm đà Việt Nam, 
Con đường bảo vệ giang san,
Anh hùng hào kiệt hiên ngang giữ gìn,
Con đường quyết tạo niềm tin,
Con đường vương đạo văn minh tuyệt vời,
 Bá đạo quyết bỏ ai ơi,
Nói thì làm thật chẳng lời nào sai,
Làm trai cho đáng nên trai,
Giữ lời - xứng bậc anh tài mày râu 
Tầm nhìn dân tộc làm đầu
Mục tiêu phải đạt mau mau hùng cường
Không ai làm nhục quê hương
Khiến cho tụt hậu coi thường nước Nam 
 Nguy cơ bắc thuộc phải bàn
Phải tính phải toán kỹ càng người ơi.

Con đường đã rõ mười mươi
Dù cho nghịch cảnh ta thời cứ yêu, 
Tùy duyên tùy cảnh yêu nhiều,
Tùy thời vẫn giữ những điều ước mong,
Dù cho xa cách muôn trùng,
Cũng đừng vì thế hết cùng yêu nhau,
 Nếu không thỏa nguyện ước cầu,
Nhìn cùng một hướng yêu nhau thật lòng,
Tình yêu dù lớn dù con,
Dù sao ta vẫn hẵng còn yêu nhau, 
Tình yêu mới thật nhiệm mầu,
Phải gìn giữ nó trước sau một lòng!

Tôi hy vọng Đại Trường ca Tình yêu mở đầu là Trường Tương Tư của nhà thơ Mai Trinh sẽ hấp dẫn tuổi trẻ Việt Nam đang yêu trong thời đại xây dựng đất nước. Những vần thơ này sẽ được hát với hàng trăm, hàng ngàn làn điệu dân ca ca cổ ba miền, cũng là thông điệp gửi tới tuổi trẻ Việt Nam tiếp bước cha anh xây dựng Đất nước hùng cường để không còn tụt hậu, bị  xử ép làm nhục như hiện nay ở Biển Đông nữa.

(Nhớ đón nghe Chương Trình Hát thơ của Nhóm Nghệ Sĩ Ca Trù & Hát Thơ Lạc Việt hồi 19g-21g từ ngày 22/1 đến 27/1/2013 tại Hội Chợ Tết Phú Thọ, đường Lý Thường Kiệt - Lữ Gia, Q.11, TP.HCM)