Tuesday, December 25, 2012

Hát nói: Chúc mừng năm mới 2013

* Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Tiến sĩ sử học

Mừng chúc Giáng sinh Năm Mới
Thế gian này tiến tới bình an
Chẳng còn xử ép nước Nam
Chẳng còn chịu nhục chẳng còn chịu thiệt.

Tham lam quá mưu gian chiếm biển
Hung dữ ôi ý định bá quyền!
Việt Nam ơi ta quyết tiến lên
Giữ bản sắc giữ hồn thiêng Đất Việt.

Giáo dục quốc sách hàng đầu đào tạo nhiều tuấn kiệt
Đưa Việt Nam thành cường quốc biển tương lai
Thanh niên rường cột ngày mai.

Friday, December 14, 2012

Kế sách cứu nước - xây dựng nội lực đất nước hùng cường thế kỷ XXI của Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã gửi quý lãnh đạo đất nước; lãnh đạo chính trị cùng thanh niên Việt Nam ở trong và ngoài nước


(Kinh Thư trong thập nhị hiền kinh)

Tôi vốn là nhà sử học nghiên cứu lịch sử Việt Nam với cách nhìn ngàn năm trước hướng về ngàn năm sau, nhận thấy rằng hiện nay không còn là nguy cơ xâm lược mà thật sự đã xảy ra xâm lược lãnh thổ ở Biển Đông và xâm lược phá nát kinh tế văn hóa xã hội Việt một cách thâm sâu chưa từng có.

Song đây lại là thời cơ có một không hai của người Việt chúng ta, xin soạn thảo kế sách cứu nước và xây dựng nội lực đất nước hùng cường thế kỷ XXI, gửi tới quí lãnh đạo nhà nước, quí lãnh đạo chính trị, các doanh nhân cũng như toàn dân với ước mong tất cả người Việt chúng ta trong và ngoài nước phải bừng tỉnh, cần có tâm và có tầm, nhất là các bạn thanh niên hãy cương quyết xóa đi những gì xấu xí của người Việt, quyết bỏ qua một bên và hàn gắn những đau thương của thế kỷ XX với  “một triệu người vui và một triệu người buồn”, vượt lên chính mình, nỗ lực không ngừng nghỉ xây dựng một nước Việt Nam hùng cường của thế kỷ XXI, sánh vai với các cường quốc năm châu bốn biển, quyết không còn là quốc gia bị lệ thuộc, nạn nhân của thời cuộc quốc tế, bị xử ép làm nhục và bị tụt hậu nữa!

Kế sách này phải là kế sách của toàn dân trước hết là của thanh niên đi tiên phong trong quá trình đại hoà dân tộc, mỗi người một kế hoạch nhỏ đầy sáng tạo xây dựng nội lực đất nước hùng cường. Nhà nước là yếu tố quan trọng song nhất định từ bỏ mọi bao cấp kể cả bao cấp yêu nước.

Kế sách cứu nước này phải kế thừa sự khôn ngoan của cha ông hàng ngàn năm nay từ tuyên ngôn độc lập “Nam quốc sơn hà Nam đế cư, tiệt nhiên định phận tại thiên thư” của Lý Thường Kiệt, “văn hiến Bắc Nam mỗi nước mỗi khác” của Bình Ngô đại cáo, “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, lòng nhân ái của Lý Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn…

Kế sách cứu nước này phải là kế sách đấu tranh ngoại giao hòa bình đa phương hóa, đa dạng hóa, sử dụng sức mạnh tổng hợp thời đại toàn cầu.

Kế sách cứu nước này phải là chiến lược chứ không phải chỉ là sách lược giai đoạn đoàn kết dân tộc đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, huy động lòng yêu nước toàn dân trong xây dựng nội lực đất nước hùng cường, các công ty đều lấy mục tiêu góp phần phát triển đất nước, những gì hại cho quyền lợi đất nước quyết không làm…

Kế sách cứu nước  này phải là kế sách trở về nguồn, giữ gìn bản sắc Việt, tạo lòng tự hào dân tộc, tự lập tự cường trong lịch sử đấu tranh cũng như trong xây dựng - xây dựng quốc đạo nhân chủ, thờ quốc tổ, thờ anh hùng dân tộc, những triết lý sống Việt là mẫu số chung của tất cả người Việt Nam không phân biệt chính kiến tôn giáo, địa phương, tạo động lực yêu nước chân chính phát triển đất nước hùng cường. Như người Nhật đã lấy ngày 31 tháng 12 hàng năm tất cả già trẻ lớn bé đến Đền thờ Thần đạo thì người Việt chúng ta cũng lấy ngày 10 tháng ba Âm Lịch tất cả  đều đến Đền thờ Quốc tổ, các đình, đền, miếu có biểu tượng Quốc tổ và anh hùng dân tộc để chiêm bái tỏ lòng đoàn kết dân tộc, quyết tâm trở về Cội nguồn xây dựng Đất nước hùng cường.

Kế sách cứu nước này phải là kế hoạch tạo niềm tin, cách mạng văn hóa xã hội không được dối trá, nói dối; cùng xây dựng xã hội lành mạnh, tử tế, pháp trị.

Kế sách cứu nước phải thật sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, đẩy mạnh phong trào thế giới du với hàng trăm ngàn, hàng triệu du học sinh, kể cả các thầy giáo đi học hỏi thu tóm những tinh hoa hiện đại của thế giới về xây dựng đất nước hùng cường, phải làm cuộc cách mạng văn hóa giáo dục xây dựng đất nước hiện đại hùng cường. Phải tạo động lực yêu nước trong đấu tranh vả xây dựng, lấy mối nhục tụt hậu và bị cường quốc láng giềng xử ép, làm nhục làm động cơ hành động xây dựng đất nước.

Kế sách cứu nước này phải là chiến lược phát triển kinh tế biển, tạo cú hích cất cánh kinh tế Việt Nam như xây dựng cảng sâu nhất thế giới như cảng Vân Phong với đường cao tốc xuyên quốc gia không qua đèo nào, đoàn kết với các nước ASEAN để các nước ASEAN như Lào, Miến Điện, Campuchia, Thái Lan sử dụng.

Kế sách cứu nước ngoài chiến lược lâu dài trên, phải ưu tiên trước tiên tập trung chiến lược đối phó xâm lược ở Biển Đông với ngoại giao khôn ngoan hòa bình đa phương, đa dạng, tích cực phòng vệ vững chắc các hải đảo, quốc phòng toàn dân, mỗi ngư dân là một dân binh.

Phải như Trung Quốc từ Trung ương có hẳn một viện nghiên cứu rất lớn về Biển Đông  và nhiều cơ quan trực thuộc Trung ương khác từ Viện Khoa học đến Bộ Tư lệnh Hải quân, cơ quan Tình báo, tất cả  thường xuyên tiến hành nghiên cứu, biên soạn tài liệu, tổ chức hội thảo v.v. về chủ quyền biển đảo.  Rồi đến các địa phương cấp tỉnh, mỗi tỉnh ven biển đều có nhiều cơ quan nghiên cứu về biển đảo cũng như đến các trường đại học, đều tham gia nghiên cứu, quảng bá chủ quyền của Việt nam tại Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông.

Với xâm lăng kinh tế, văn hóa xã hội thì quyết bảo vệ bản sắc Việt, xã hội lành mạnh, chống văn hóa, giáo dục nô dịch ngoại lai, xây dựng nền kinh tế tự lập tự cường, không lệ thuộc, đặc biệt cấp tốc bài trừ các hàng Trung Quốc và cách nuôi trồng Trung Quốc độc hại như rau củ quả, thực phẩm, các gia vị, phẩm mầu , các đồ chơi cùng nhiều hàng hóa khác rất độc hại đang đe dọa đến sự sống còn của mỗi người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam!

Soạn dự thảo từ ngày 22/7/2012, đúc kết hoàn tất vào ngày 12/12/2012 sau khi được các thân hữu nhất là các bạn trẻ góp ý kiến hoàn chỉnh. Từ “kế sách” này được soạn đã tạo hứng thú sáng tác Kinh Quốc đạo trong vòng tháng 8/2012 mà “kế sách” trở thành Kinh Thư.

Ngưỡng trông - Nguyễn Quảng Tuân

Chân thành tưởng nhớ Nhà nhiếp ảnh Phạm Văn Mùi (1907 – 1992).

Thân phụ bà Phạm Vân Loan
Đúng là nghệ thuật,
Ảnh trắng đen trông thật đẹp làm sao!
Mới ngắm qua tình cảm đã dạt dào,
Lòng cảm phục càng ghi vào trí nhớ.

瑩 心 耀 目 存 今 古
碩 彥 聲 名 記 後 來
Oánh tâm diệu mục tồn kim cổ,
Thạc ngạn thanh danh ký hậu lai (1).

Những tấm hình như “Suối tóc” đen dài,
Vẻ “Duyên dáng” của hai người thiếu nữ.

Ảnh đẹp ấy đã làm nên vinh dự,
Của chính mình ở tận xứ Bra-zin (2).
“Phong sương đượm vẻ thiên nhiên,
Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi ”(3) .
Ngưỡng trông gọi có đôi lời…

(1) Oánh tâm diệu mục: sáng rọi trong lòng, làm bừng đôi mắt. Cả câu ý nói xem những bức ảnh chụp của cụ Phạm Văn Mùi thấy sáng trong lòng, đẹp con mắt nghĩ thật có giá trị so với kim cổ nên lưu lại.

Thạc ngạn thanh danh ký hậu lai: Cụ Phạm Văn Mùi là người có tài cao (thạc: to lớn, ngạn: kẻ sĩ tài đức), có danh tiếng tốt , đáng lưu lại làm gương cho đời sau .

 (2) Tác phẩm Duyên dáng đã được chọn trưng bày vĩnh viễn tại Bảo tàng Mỹ thuật Brazil từ năm 1963 và cũng mang lại nhiều huy chương quốc tế danh giá.

(3) Cụ Phạm Văn Mùi có để lại 9 bức tranh vẽ ngoài những bức ảnh chụp.

Thư mời đến dự Đêm ca trù và hát thơ báo hiếu nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất cố nghệ sĩ nhiếp ảnh gia Phạm Văn Mùi



LỜI NGỎ ĐÊM CA TRÙ & HÁT THƠ BÁO HIẾU TẠI NHÀ LƯU NIỆM CỐ NGHỆ SĨ NHIẾP ẢNH PHẠM VĂN MÙI 

191/1D Trần Kế Xương, P7, Q. Phú Nhuận, Tp. HCM
Ngày 14 tháng 12 năm 2012 (nhằm  Ngày 2 tháng 11 ÂL)

Trong bài thơ “Quê hương tôi” của thân phụ chúng tôi là cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Phạm Văn Mùi đã viết:

“Bản tính tôi nặng mang mối tình dân tộc
Mê thích thi ca yêu văn học dân gian
Uẩn súc cao sâu nền văn hóa Việt Nam
Sau này lớn lên tôi quyết làm thi sĩ
Ca tụng quê hương ôi Núi sông hùng vĩ
Những con người thông minh tài trí hiên ngang
Từ ngàn xưa đồng lòng giữ vững biên cương
Đưa Dân tộc hùng cường nhất vùng Đông Á…”

Chúng tôi coi đây là những lời di huấn của cha chúng tôi. Cha chúng tôi còn nói nhiều đến giữ gìn bản sắc dân tộc.

Khi viết Lời tựa cho một tác phẩm nhiếp ảnh gồm các tác phẩm được giải thưởng quốc tế  lớn, cha chúng tôi viết: “Nhiếp ảnh Việt Nam trong nhiều năm trước năm 1975 đã đạt được những thành tích sáng chói trong những kỳ thi ảnh và triển lãm quốc tế. Sở dĩ được thế là do nhiếp ảnh Việt Nam đã mang đậm màu sắc dân tộc, phong phú về nội dung với hình thức mỹ thuật và kỹ thuật điêu luyện diễn tả rõ những ý nghĩa người nghệ sĩ nhiếp ảnh muốn truyền đạt qua tác phẩm và đậm nét tinh hoa của nền văn hóa cổ truyền Việt Nam”.

Toàn bộ 200 tác phẩm ảnh nghệ thuật trong đó có những tác phẩm đã được in trong cuốn sách “Ảnh nghệ thuật Việt Nam Phạm Văn Mùi” cũng như đang được trưng bày tại Nhà Lưu niệm Cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Phạm Văn Mùi đã thể hiện tinh thần trên đây từ bộ ảnh tóc dài người phụ nữ Việt Nam như Duyên dáng, Suối tóc, Tâm tư... hay Nón lá bài thơ, Nát óc… hay Trâu bên lũy tre, Vườn cau trăng sương, Cấy lúa đêm trăng, Chị em… hay Vịnh Hạ Long, Trên dòng suối tiên, Nhạc thu… hay Chùa Thày, chùa Một cột… hay Chung thủy, Hoa Quỳnh…

Với tinh thần giữ hồn dân tộc rất cần thiết trong lúc này cho tất cả chúng ta không phân biệt chính kiến, tôn giáo, sắc tộc, địa phương, để dạy dỗ con cháu chúng ta,  chúng tôi đã soạn ra những vần thơ gọi là kinh Quốc tổ, thập nhị hiền kinh, thờ kính Quốc tổ, anh hùng dân tộc, tổ tiên , ông bà cha mẹ chúng ta.

Tại gia đình, chúng ta có thể mở đầu bằng Kinh báo hiếu hay kinh Chúc phúc; tại các đền, đình chùa, nhà thờ… chúng ta có thể bắt đầu bằng kinh thích hợp trong mỗi trường hợp như Kinh Thơ Quốc đạo, kinh Thư hay kinh Nhật tụng hoặc kinh Tưởng nhớ, kinh Cầu an hay kinh Xá tội vong nhân, Kinh Chiêu hồn tử sĩ, kinh Kính mừng, kinh Nguyện...

Với ước mong tinh thần “Sấm Truyền Ca”, Việt hóa Thánh Kinh của thầy giảng Lữ Y Đoan ở Đàng Trong vào khoảng năm 1670 cũng như tinh thần Việt hóa các loại kinh hiện nay sẽ góp phần xây dựng Hồn Việt ngày càng phàt triển để văn hóa Việt sáng chói trên thế gian này.

Sau những thành tích sáng chói của Nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam trên thế giới, ước mong rồi đây các di sản văn hóa  phi vật thể và vật thể từ thiên nhiên đến thơ ca, ẩm thực Việt… sẽ được tỏa sáng trên thế giới. Ngôi nhà lưu niệm này cũng là nơi tôn vinh Nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam, Thơ ca Việt Nam, ẩm thực Việt Nam.

Đó cũng là lý do, mục tiêu của Đêm Ca trù & hát thơ Báo Hiếu ngày hôm nay. Mong được chia sẻ của quí vị có mặt hay không có mặt ngày hôm nay. Xin Quí vị ghi cảm nhận trong Cuốn Sổ Vàng hay trong thư hay phát biểu trong Buổi họp mặt đêm nay.

Xin chân thành Cám ơn Quí vị.

Nguyễn Nhã & Phạm Vân Loan


*Chương trình dự kiến:

17g-17g30 Đón khách

17g30 Ăn nhẹ, ca trù & hát thơ
1. Ngưỡng Trông (Ca trù hát nói Nguyễn Quảng Tuân), NS Thục An.
2. Kinh Báo Hiếu (Chầu văn Bắc, Chầu Văn Huế , dân ca Ba miền), NSUT Hồng Vân.
3. Kinh Tưởng Nhớ (Chầu văn Bắc, Quan Họ, xẩm), NS Vũ Huy Dự.
4. Kinh Thơ (Chầu văn Bắc, chầu văn Huế, dân ca ba miền), NSUT Hồng Vân.
5. Kinh Thư (Chầu văn, dân ca Nghệ Tĩnh), NS Hồng Oanh.
6. Kinh Kính Mừng (Chầu văn Huế, chầu văn Bắc, dân ca Huế, Bắc), NS Đức Tâm.
7. Kinh Xá Tội Vong Nhân (Bài chòi, hò bá lý…), NS Thúy Hồng.
8. Kinh Chiêu Hồn Tử Sĩ (Hát ru ca trù, dân ca Bắc Bộ), NS Kim Thoa.
9. Kinh Nhật Tụng (Rỗi Bóng, tài tử Nam Bộ, Dân ca Nam Bộ), NS Đại Lợi.
10. Kinh Báo Ân (Ả Phiền; hát xẩm huê tình, hát ru), NS Thục An.
11. Kinh Nguyện (Chầu văn Bắc, dân ca Bắc Bộ), NS Vũ Huy Dự.

20g Kết thúc

(Thơ thập nhị hiền kinh trích trong Mai Trinh & Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Giáo Dục Gia Đình & Văn Hóa Quốc Đạo)

Với sự hiện diện của các nhà nghiên cứu, nhà thơ, nhà văn, các thân hữu & gia đình.

Xin lưu ý: Vì chương trình nhiều tiết mục, mỗi tiết mục tối đa 12 phút

Ban nhạc: Vũ Huy Dự, Mạnh Thắng…"

Saturday, November 3, 2012

Công khai tài liệu quý hiếm về biển đảo

(01/11/2012)

Hội thảo “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý hiếm và phát huy giá trị nguồn sử liệu về biên giới, hải đảo của Việt Nam” đã được Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước - Bộ Nội vụ tổ chức tại TP.HCM ngày 30/10. Hội thảo có một phần nội dung “kiểm đếm” các tài liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Cán bộ Trung tâm Lưu trữ quốc gia I khảo sát tài liệu châu bản của nhà nghiên cứu Phan Thuận An (trái) - người tìm thấy nhiều chứng cứ chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa từ các châu bản - Ảnh: Trung tâm lưu trữ quốc gia

Đây là những khởi đầu của đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý hiếm của Việt Nam và về Việt Nam” do Chính phủ phê duyệt tháng 5/2012. Theo đó, một nội dung quan trọng cũng chính là nhiệm vụ đặt ra với Cục Văn thư và lưu trữ là khẩn trương, tích cực sưu tầm và phát huy giá trị tài liệu về chủ quyền biên giới, hải đảo Việt Nam.

Nếu hình dung đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên lĩnh vực học thuật và lưu trữ tài liệu cũng là một mặt trận, thì đây là những bước điểm binh cần thiết.

Độ tin cậy cao

Phần trình bày của các thạc sĩ, tiến sĩ, nhà nghiên cứu và là cán bộ của các trung tâm lưu trữ quốc gia I, II, IV cho thấy hệ thống tài liệu quý hiếm hiện có của Việt Nam về đề tài chủ quyền biên giới, hải đảo thật sự phong phú và có độ tin cậy cao.

Trước hết là nguồn tài liệu Hán Nôm về biển đảo, bao gồm: châu bản triều Nguyễn, địa bạ triều Nguyễn, phông Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Trong đó châu bản triều Nguyễn gồm 773 tập tài liệu gốc, là những tài liệu hành chính được các vua nhà Nguyễn tự tay “ngự phê” hoặc “ngự lãm”, có giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành cao nhất, có giá trị thông tin mang tính chân thực lịch sử. Đây là loại văn bản được sử dụng làm phương tiện quản lý, điều hành của các cấp chính quyền trong quá trình hoạt động của triều Nguyễn.

Về nội dung này, TS Nguyễn Nhã có nhắc đến một văn bản châu bản triều Minh Mạng (1836), nội dung có lời châu phê của vua Minh Mạng: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ: Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên cai đội thủy quân đi đo đạc, cắm cột mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”. Theo đánh giá của nhiều giới, đây là những bằng chứng lịch sử có giá trị thông tin gốc mà không một quốc gia nào đang tranh chấp về chủ quyền biển đảo với Việt Nam có được.

Bên cạnh đó, Việt Nam còn lưu trữ được hệ thống bản đồ hành chính liên quan đến chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây phát hành trước thế kỷ 20. Cả ba hệ thống bản đồ này đều là những chứng cứ pháp lý có tính thuyết phục cao, khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Đồng thời tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II còn các tài liệu phản ánh quá trình thiết lập chế độ hành chính của các chính quyền thời phong kiến Pháp thuộc và thực dân mới Mỹ tại Hoàng Sa, Trường Sa. Ở đây cũng còn lưu trữ tài liệu về chính quyền quốc gia Việt Nam (do thực dân Pháp dựng lên trong cuộc tái chiếm Việt Nam) tham dự Hội nghị San Francisco từ ngày 5 đến ngày 8-9-1951 do các nước đồng minh trong chiến tranh Thế giới II tổ chức để thảo luận vấn đề chấm dứt chiến tranh tại châu Á - Thái Bình Dương. Tại đây, ông Trần Văn Hữu, thủ tướng, dẫn đầu phái đoàn quốc gia Việt Nam vào ngày 7-9-1951 đã tuyên bố xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Các tài liệu về hoạt động kinh tế tại Hoàng Sa và Trường Sa của chính quyền Sài Gòn trước năm 1975, tài liệu tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Hoàng Sa, Trường Sa từ sau năm 1945 cũng còn lưu trữ đầy đủ.

Cần một sự thống kê có hệ thống

TS Nguyễn Nhã cho biết trong quá trình nghiên cứu, ông nhiều lần tìm cách tiếp cận văn bản châu bản Minh Mạng năm 1836 - một văn bản tối quan trọng thể hiện chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - nhưng đến nay vẫn chưa được. Lý do là chưa được tiếp cận tài liệu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia.
Tuy nhiên, bà Vũ Thị Minh Hương - cục trưởng Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước - khẳng định tại hội thảo rằng cánh cửa vào trung tâm lưu trữ không quá khó như nhiều người vẫn nghĩ. “Chúng tôi vẫn nói với các nhà nghiên cứu, sử học như Vũ Minh Giang, Dương Trung Quốc rằng các anh nên đến trung tâm lưu trữ, và khi giảng dạy cho sinh viên cũng nên nói cho các em hiểu rằng nếu các luận văn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ có sử dụng tài liệu tham khảo từ Trung tâm Lưu trữ quốc gia thì giá trị tăng lên rất nhiều”. Thạc sĩ Hà Văn Huề trong phần phát biểu của mình cũng khẳng định hiện nay văn bản châu bản Minh Mạng năm 1836 đang lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. Bà Minh Hương cũng đã khẳng định rằng “chúng tôi có nhiệm vụ phục vụ các nhà nghiên cứu”.

Dù vậy, nhìn rộng ra công tác tư liệu đối với các tài liệu quý hiếm về biển đảo Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm. Nhà báo Nguyễn Văn Kết cho rằng hiện nay các nguồn tài liệu chưa được thống kê có hệ thống để thu thập có hiệu quả, chưa có đầu mối thống nhất trong việc thu thập và quản lý tài liệu. Ông Kết cũng đề xuất khẩn trương thu thập các tài liệu liên quan đến chủ quyền lãnh thổ quốc gia, Hoàng Sa, Trường Sa cả ở trong và ngoài nước, và hệ thống hóa tài liệu thu thập được để công bố bằng hình thức thích hợp: xuất bản, đăng tải trên cổng thông tin, hội thảo...

Về nội dung này, ThS Nguyễn Thị Thùy Trang - Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước - cho biết trong kế hoạch lựa chọn tài liệu về Việt Nam cần sưu tầm ở nước ngoài, có ưu tiên nội dung tài liệu chứng minh chủ quyền lãnh thổ và biên giới biển, hải đảo, đất liền, không trung của Việt Nam. TS Nguyễn Nhã cho rằng hiện nay cần tích cực xây dựng thư mục về các châu bản và văn bản về Hoàng Sa, Trường Sa. Đây cũng là một việc cần làm, bởi có thư mục chuyên đề như vậy, chúng ta dễ dàng nắm bắt tình hình tư liệu sưu tập, khai thác và sử dụng đến đâu, như cách điểm binh để ước lượng tình hình vậy./.

Nguồn: http://biengioilanhtho.gov.vn/vie/congkhaitailieuquyhiem-nd-be735c35.aspx & http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121030/cong-khai-tai-lieu-quy-hiem-ve-bien-dao-viet-nam.aspx